“NƯƠNG THEO DÒNG CHẢY” CỦA TRẦN SANG

Nhà thơ Trần Sang, tên thật Trần Phước Sang – hạt phù sa “Nương theo dòng chảy” đầu nguồn sông Cửu Long miền biên vực Tân Châu [Việt Nam – Kampuchia], xưa thuộc Châu Đốc và nay là An Giang. Miền đất ấy, vốn có bề dày văn hóa lịch sử cũng như sản phẩm tơ lụa với Lụa Tân Châu một thời vang bóng. Nhà thơ họ Trần gắn bó đất quê, hồn quê và dành trọn tấm lòng yêu quê hương qua văn chương. Theo trang thông tin Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang, “năm 2014, anh xuất bản tập thơ đầu tay “Sông muôn đời vẫn thế” và đoạt Giải Tác giả trẻ của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam trong năm này”. Từ đó đến nay, Trần Sang miệt mài “Nương theo dòng chảy” của nước và thời gian trên hành trình thi ca “dâng hiến” người đọc những thanh âm trong trẻo, hình ảnh tươi sáng, giọng điệu dung dị, chân thật, gần gũi. Ngần ấy, Trần Sang tạo riêng có thế mạnh ẩn chứa mạch ngầm hằng hà sa số phù sa chiêm nghiệm sâu lắng. Tập thơ Nương theo dòng chảy (NXB Đà Nẵng, 2025) tiếp nối mạch suy tưởng đó, mang lại cho bạn đọc cơ hội quay vào chính mình để sống trọn vẹn với những dòng chảy nội tại và hòa vào dòng chảy chung của đời sống thường nhật trong cõi nhân gian.

Dòng chảy đời sống hối hả thời hiện đại

Nhiều bài thơ của nhà thơ Trần Sang thể hiện bối cảnh đời sống của thời đương đại. Cho thấy, nhà thơ họ Trần luôn gắn chặt lòng mình với nhịp đời đang xảy ra. Trong đời sống đó, Trần Sang cảm tưởng, thực hành sống của con người đương thời như đang dấn thân vào mê cung dữ liệu – vấn nạn sống trong không gian số hóa. Trong sự lặp lại thời gian, Trần Sang thực hiện hành trình nội tâm. Qua đó nhà thơ phản ánh không gian kỹ thuật số. Con người ngày càng gắn chặt vào công nghệ, đến mức bị chi phối và lệ thuộc. Mạng nhện giăng tơ, đúng hơn là mạng lưới kết nối không dây. Sự kết nối trở nên sự giăng bẫy. Hồn người sa vào trên mạng nhện đó. Và đến mức, lòng người bị thuật toán uốn cong. “Lòng người uốn cong qua thuật toán / lạnh lùng lặp mãi ánh nhìn xưa / sự thật trôi xa ngoài cú click / ta trao nhau lời hứa mơ hồ / qua tín hiệu 4G, 5G / nhanh như chớp mắt rồi tan biến / như tin nhắn vừa đến đã quên thôi / (tr.7). Cho thấy, công nghệ đã bá đạo đến mức chi phối sự định hình suy nghĩ và hành vi con người.

Qua đó, nhà thơ Trần Sang còn phản ánh sự nhập nhằng giữa thực tại và thế giới ảo. Thông tin thật giả lẫn lộn, con người sa lầy trong ma trận truyền thông. Vì thế mối liên kết tâm hồn giữa người với người có nguy cơ trở nên xói mòn. Quan hệ người trong thời đại số dễ dàng trôi tuột theo tin nhắn. Chỉ trong chớp mắt, tình người có thể tan biến. Con người lạc lối trong mê cung dữ liệu. Ở đó, cảm xúc trở nên thông tin, trở nên xơ cứng. Đúng hơn, cái chết của cảm xúc con người. Và chính ở đây, nhà thơ bộc lộ nỗi khao khát “nhân tính”, mong mỏi quy nguyên bản diện nhân tâm. “ngày mai ai còn nhớ / khi lịch sử hóa chuỗi nhị phân / cảm xúc thu mình trong biểu tượng / “một like” “một love” hay “haha” / che giấu nỗi trống rỗng bên trong / ta lạc bước mê cung chằng chịt / tìm một câu trả lời chẳng thấy trên google / một ánh mắt chưa bị che bởi filter / và một trái tim chưa hóa thành cỗ máy kiếm tìm …” (tr.8). Tác động công nghệ cũng như đời sống vật chất hiện đại khiến cho con người trở thành cỗ máy vô hồn. Nhà thơ bộc lộ nỗi xót xa về tình trạng mối liên hệ giữa người với người ngày càng xói mòn.

Và, cũng như thế, tình người trong xã hội hiện đại cũng chịu sức ép – sức ép rất nặng của “cơ chế thị trường” khiến con người phải sống với nhau bằng nhiều – rất nhiều lớp mặt nạ. “Nụ cười không còn ấm”, mà chỉ những vẻ mặt lạnh tăn sau một ngày uể oải cày xới trên mảnh đất công nghiệp. Vùi mình trong cuộc chạy đua sinh tồn ở những khu vực thành thị sáng đẹp, dẫu lời nói vẫn đẹp như hoa, nhưng gốc rễ của nó đã khô cằn sượng cứng. Đôi môi người “nở ra những điều người khác muốn nghe/ chứ không phải sự thật mà trái tim cần nói/ sự ích kỷ len lỏi như khói bụi/ bám vào từng hơi thở của cuộc đời/ người ta tranh giành/ không vì thiếu thốn/ mà vì nỗi sợ mất đi những thứ/ chưa từng thuộc về mình” (tr.112). Nhà thơ họ Trần bày ra cuộc đời như bãi chiến trường, thể hiện nỗi ngao ngán và chán chường trước cuộc đấu tranh sinh tồn của con người. Sống trở nên sự chấn thương hiển nhiên. Hung khí gây tạo vết thương hay đúng hơn, vết cắt cứa và theo Trần Sang: dối trá, ích kỷ, lòng tham, dò xét, toan tính. “chúng ta đang sống trong một thời đại/ mà sự tử tế trở thành điều hiếm hoi/ nơi lòng nhân ái bị che mờ bởi ánh hào nhoáng/ có đủ dòng suối trong/ để rửa sạch những bụi bẩn bám lên tâm hồn? / hay chúng ta sẽ tiếp tục đeo mặt nạ/ cho đến khi chính mình không còn nhận ra / khuôn mặt thật của mình!” (tr.113). Đời sống vật chất tiêu thụ có nguy cơ khiến cho con người vong bản. Đánh mất bản diện nhân tâm, con người có nguy cơ sụp đổ hệ giá trị sống và trở nên “hư vô hóa”!

Hơn thế, đời sống hiện đại hóa, đúng hơn đô thị hóa có thể khiến con người mất đi những giá trị người mãi mãi. Cái giá của hiện đại là những ký ức tuổi thơ mãi mãi chìm khuất vào quá khứ. Quy hoạch và những tòa nhà ngạo nghễ như thể chế giễu nỗi đau mất mát trong hồn người. Những tòa nhà ấy, không chỉ che khuất vầng trăng, cái vầng trăng của nhà thơ Nguyễn Duy “ngỡ không bao giờ quên/ cái vầng trăng tình nghĩa”, mà còn khe khuất phần thơ ấu quý giá trong tâm khảm con người. Và, ta nhận thấy như thể còn mất mát điều gì nữa không thể nói rõ. Nó để lại khoảng trống hoang hoác trong tâm hồn. Phải chăng đó là mất mát hồn quê đằm thắm chan hòa. “Người ta san bằng cánh đồng/ hồn quê chìm khuất dần giữa những khu dân cư kiểu mẫu/ tiếng còi xe, tiếng máy nổ/ nhấn chìm tiếng gió, tiếng chim/ và tiếng mẹ gọi tôi mỗi chiều” (tr.114). Với tốc độ đô thị hóa như hiên nay, hồn người ngày càng xa rời thiên nhiên, xa lạ với thiên nhiên và có nguy cơ đứt lìa mối liên kết thời gian giữa thời đương đại và thời xưa, đứt lìa truyền thống văn hóa xứ sở.

Trong đó, nhà thơ Trần Sang lưu ý quy hoạch tương lai có nguy cơ trở thành giải tỏa quá khứ và như thế, là đánh mất nền tảng tâm hồn hôm qua. “Người ta bảo đây là quy hoạch tương lai/ những ước mơ ngày một lớn/ nhưng sao lòng người ngày càng hẹp lại/ trong những ô vuông bê-tông dày đặc/ ai cầm bản đồ?/ ai vẽ những đường ranh giới?/ ký ức bị san phẳng/ yêu thương bị phân lô/ người với người thành từng khu biệt lập/ đường thẳng băng chẳng hẹn gặp bao giờ/ dẫu đi suốt một đời/ có những trái tim bị che khuất/ bởi bóng những tòa nhà cao tầng/ có những mùa yêu thương/ không kịp quy hoạch/ hóa thành mảnh vụn/ trên nền gạch nham nhở” (tr.114-115). Theo guồng quay đó có thể rất nhiều thứ mất mát, có thể ta sẽ quên những câu chuyện về lòng tử tế. Bởi con đường bụi mù của thời đô thị hóa có thể không chỉ cuốn theo những vòng xe mà còn cuốn theo cả những vòng quay điên đảo lòng người. Vòng lăn của dối trá, thiêu đốt lòng người tro than, hoặc có khi như đóm tàn âm ỉ trong lòng, lần hồi nó ngún cháy lòng dạ, biến đổi hồn người lúc nào không hay!

Thời đại ấy, chiếc điện thoại nhiều khi lại gần gũi với ta hơn là những người thân yêu. “Khi chiếc điện thoại trở thành bạn thân/ và ánh sáng màn hình/ che mờ đi nụ cười của mẹ/ của cha/ của chính chúng ta …” (tr.21). Giữa vòng quay đó, đồng tiền lên ngôi, nó cuốn phăng đi tình thân, nó hùng hục như lũ quét, mọi giá trị thiêng liêng có thể bị mai một bởi sức câu kéo của đồng tiền. “Đồng tiền/ chảy tràn như cơn lũ/ cuốn theo sự thờ ơ/ cả những giá trị/ đã từng thiêng liêng” (tr.21). Nhà thơ cho thấy nhiều ưu tư về lẽ biến đổi của đời sống dưới sức ép kim tiền. Khi con người có thể ngồi trên nỗi khổ của kẻ khác; khi trẻ con ngay từ thơ bé đã làm trò mua bán cảm xúc bằng lượt thích và độ tương tác trên mạng xã hội. Con người trong đời sống số hóa dần chạy theo giá trị bên ngoài mà không trau dồi đời sống tâm hồn. Họ có thể trở nên những con người rỗng. Và có thể cũng chỉ là những hình nhân trên mạng lưới internet chứ không phải sống thực bằng trải nghiệm của con người bằng xương bằng thịt. Nhà thơ, vì thế, tỏ ra băn khoăn “ngài mai/ liệu có còn những đôi tay/ giữ chặt lấy nhau/ khi thế giới dần tan biến/ trong gam màu lợi ích?” (tr.22). Lợi ích lên ngôi liệu có khiến lòng người xuống dốc.

Và, vì vậy, giữa vòng quay cuộc đời hối hả, nhà thơ mong mỏi chốn bình yên. Nhưng tìm đâu trên đời này chốn bình yên nếu lòng người không có bình yên. Khi người ký thác tâm mình vào mặt hồ phẳng lặng, lòng người phản chiếu cả bầu trời rộng lớn. Lòng người mô phỏng bình yên của mặt hồ, lúc đó lòng người được gợi nhắc trở về trạng thái uyên nguyên ban đầu tĩnh tại. Sự nhắc nhớ … giữa đời sống bộn bề lo toan … con người cần lắm sự nhắc nhớ như vậy. Để một khi rơi vào rối ren, ta chợt nhớ trạng thái tĩnh tại ban đầu, để quay trở về, để không phóng tâm tiếp tục lao mình theo sự đời rối ren. Nhà thơ nhắc ta hãy bắt chước con chim nhỏ trên cành. “Chú chim nhỏ trên cành/ hót lên giữa trưa hè rực rỡ/ không vì điều gì/ chỉ bởi nắng đang ghé qua/ và hạnh phúc nằm trong giây phút đó/ bình yên/ không phải là không có sóng gió/ mà biết lắng nghe/ khoảng lặng giữa những thanh âm / … chốn đời” (tr.23).

Thơ Trần Sang không chỉ những nhức nhối của đời sống hiện đại. Ở phương diện khác, thơ Trần Sang còn những gam màu tươi tắn trong sáng, đầy rung cảm trước vẻ đẹp cuộc đời và tha nhân.

Dòng chảy rung cảm trước vẻ đẹp cuộc đời

Vượt qua vòng quay điên đảo rối ren đời sống, thơ Trần Sang nhóm lửa và ngọn lửa ánh lên những cảm xúc tinh tế. Đâu đó trong đời sống bộn bề, hồn thơ lắng đọng trong khoảnh khắc, trong lúc lắng nghe, hồn thơ giao hòa thiên nhiên. Từ những rung động rất đời thường như thế, nhà thơ bộc lộ ít nhiều suy tư về đời sống. Hình ảnh chim hót buổi sáng cho thấy cái nhìn thẩm mỹ đối với thực tại. Thiên nhiên đã đánh thức hồn thơ. Và tiếng chim là tín hiệu của ngày vui. “Sáng sớm, tiếng chim hót / nhẹ rơi qua ô cửa / rót vào không gian / cái dịu dàng của ngày mới / tôi ngồi nghe / từng giọt thanh âm / gõ nhịp lên tĩnh lặng / như đánh thức điều gì rất cũ / lời ru của đất / hay hơi thở của cây?” (tr.11). Tiếng chim như chuông lòng gõ vào tĩnh lặng của ngày, làm thức dậy những hoài niệm, ký ức và cảm giác gì đó rất đỗi thân thuộc bỗng trỗi sinh từ tiềm thức. Nhà thơ nghe ra trong dòng chảy đó lời ru. Lời ru của đất và hơi thở của cây: gợi mối giao cảm siêu hình giữa người và thiên nhiên. Tín hiệu thẩm mỹ rất nhỏ nhưng gợi ra được phần sự sống rộng lớn, xa xăm, tưởng như vọng lại từ nguyên thủy cổ sơ.

Thơ Trần Sang thường khởi đi từ những rung động nhẹ nhàng như vậy nhưng không dừng lại ở đó mà thường hướng đến một góc nhìn triết lý về đời sống. “Tiếng chim không chỉ là tiếng chim/ là giọng thì thầm của thời gian/ đưa tôi về với những điều nguyên sơ nhất/ trong vòng xoay của đời/ có khi nào tôi quên mất / yên bình thực ra / chỉ hiện hữu như một khúc ca không lời?” (tr.11). Phải chăng, nhà thơ họ Trần đất Phú Lộc gợi nhắc lòng người đôi khi mải mê chạy theo đời hối hả có thể quên mất sự bình yên hằng có. Như thế, nhà thơ gián tiếp kêu gọi ta dừng lại phút giây để nhận diện chính mình, cũng như thực sự nhận ra cuộc đời chung quanh. Hạnh phúc chẳng phải mục tiêu cao xa hay viễn đích mịt mù mà hạnh phúc có thể có được trong sự trọn vẹn của từng giây phút hiện tại. Cuộc sống mong manh và chóng vánh, những gì quan trọng chẳng phải điều chi vĩ đại mà đôi khi chỉ là những điều giản đơn bình dị.

Vì, điều đó, thơ Trần Sang như những bức tranh nhẹ nhàng, tinh tế, tĩnh lặng. Bên dưới là những suy tư sâu sắc về cuộc sống và tha nhân. Như buổi sáng bình yên, nhà thơ ngồi lặng lẽ nhìn ngắm thiên nhiên và để cho dòng tâm tưởng trôi chảy. “Sáng bình yên trôi về phía nắng/ một vùng ấm áp lan nhanh” (tr.123), ánh nắng từ trang thơ như thể xoa diệu mỏi mệt của đêm dài. Và, ánh sáng ấy, cũng soi rọi những u uẩn của tâm hồn, gợi ra niềm tin tưởng tươi sáng. Tiếng chim và ánh sáng, những tín hiệu như níu lòng người lại. Lắng đọng phút giây, hồn ta lắng nghe và cảm nhận “một thoáng thanh bình cỏ phất phơ”. Trong lắng đọng phút giây, nhà thơ Trần Sang đã cho phép lòng dạ tự chữa lành. Nói đến những đổ vỡ, tổn thương nhưng ý thơ không u trầm buồn bã, ngược lại “hong lại mình”, bằng cách đó tác giả tìm kiếm sự chữa lành, vượt thoát những tổn thương mất mát đã qua.

Hồn thơ lắng nghe truyền thần của tự nhiên, phát hiện vẻ đẹp và sự nhiệm mầu của tạo hóa. Hơi thở của đất ướp vào con chữ, tạo nên dư vị thi ca. Nhà thơ lắng nghe chuyện kể của đất trời của tạo vật. Không phải nhìn bằng mắt, không phải nghe bằng tai, mà nghe nhìn bằng trái tim, nhà thơ cảm được sự nứt mầm của hạt giống, những mùa gió vừa rụng xuống, những cơn mưa đầu mùa. Len qua kẽ nứt, những cảm xúc vi tế hóa thành thơ. “Đất thì thầm nỗi đau/ những vết xước hằn sâu/ bởi bàn tay con người/ đào xới và lấy đi/ chưa một lần trả lại/ Tôi nằm im/ nghe đất thở/ nghe cả tiếng khóc khẽ khàng/ mỏng manh như giọt sương rơi/ Rồi mai này/ đất còn đủ hơi/ để kể tiếp/ một câu chuyện lành lặn không?” (tr.118). Ý thức sinh thái ẩn chứa trong hơi thở của đất. Trong sự liên thông với thần thức thiên nhiên, nhà thơ thấu cảm niềm đau sinh giới. Không chỉ là sinh giới vô tri vô giác, ở đó, nhà thơ phát hiện những vết hằn năm tháng, tức mỗi sự thể đều hàm chứa trong nó một câu chuyện. Sinh giới bị phá hoại, con người không chỉ mất mát thiên nhiên mà còn mất mát chính phần đời sống trong mối liên hệ mật thiết với thiên nhiên.

Về phần cốt tủy nhất của tâm hồn, nhà thơ Trần Sang dành cho tình cảm gia đình. Qua hình ảnh đôi bàn tay, nhà thơ khơi gợi cội nguồn sinh dưỡng của con. Từ hơi ấm bàn tay cha mẹ gắn bó cuộc đời, con được sinh ra. Rồi bàn tay chai sần vì năm tháng của mẹ giữ gìn cho con cả bầu trời thơ bé. Bàn tay thô ráp của cha với con là nơi an toàn nhất, cũng là điểm tựa cho con vượt qua bão giông. Và, “bàn tay em/ đôi lúc run rẩy/ đôi lúc chênh vênh/ nhưng khi siết chặt/ lại đủ hóa một người thành mái ấm” (tr.19). Đó là, đôi tay của người bạn đời gắn bó keo sơn, là điểm tựa, là mái ấm gia đình, là nơi quay về… – quay về những lúc nghịch cảnh, trái gió trở trời trên bước đường đời. Và, từ bàn tay tình thân, nhà thơ họ Trần trăn trở, đúc kết: “Nếu đời người là hành trình dài/ thì những bàn tay ta đã nắm/ chính là ngọn lửa/ giữ cho trái tim/ mãi không nguội lạnh” (tr.19). Từ những bàn tay ấm nóng ấy, nhà thơ phát hiện giữa cuộc sống bộn bề hẳn vẫn còn những đều tử tế tốt đẹp, dù nhỏ bé nhưng vẫn lặng lẽ điểm tô cho đời. Chẳng hạn như ánh mắt trẻ thơ trong veo, như niềm san sẻ trong hoạn nạn gian khó.

Bởi, những điều tốt đẹp như thế, nhà thơ Trần Sang dù trang trải những u buồn tổn thương thì cuối cùng vẫn chia sẻ một niềm tin tưởng lạc quan. Cùng với đó, người con làng Phú Lộc giờ đã là nhà thơ – nhà thơ có xu hướng trở về nơi chôn nhau cắt rún – tiếng võng trưa hè hòa nhịp tiếng má ru con cùng tiếng sóng vỗ bờ sông nước. Lâng lâng hồn quê nhà, thương lắm những ngày xa lắc xa lơ ấy!

Dòng chảy hoài niệm thời gian

Giữa nhịp sống hối hả, nhà thơ Trần Sang chợt bồi hồi hoài niệm quá khứ và kèm theo đó, nhà thơ họ Trần chiêm nghiệm nơi cội chốn nguồn. Tình thơ khắc khoải, ý thơ sâu lắng, tâm hồn con người bằng suy tưởng đã quay lại cố hương sau nhiều năm lưu lạc. Đằng sau hình ảnh bình dị làng quê, bạn đọc có thể nhận ra vài suy nghiệm về thân phận con người. Và, trong đó, bạn đọc hẳn còn cảm thấu dường như có niềm chua chát về mất mát. “Về cày xới lại mảnh đất chôn nhau/ tìm gốc gác/ hai mươi năm lưu lạc/ có ngờ đâu lục bình trôi lại không trổ bông?” (tr.13). Lời thơ như gợi lên chút xót xa năm cũ. Hình ảnh lục bình gợi thân phận chìm nổi giữa dòng đời. Gợi ra nỗi buồn – nỗi buồn xa vắng của kiếp sống lưu lạc – song dù lưu lạc khắp bốn phương trời, lục bình vẫn vừa trôi vừa trổ bông. Rõ là, nhà thơ họ Trần muốn nói đến điều gì đó đã thay đổi, dòng đời và phận người giờ đã đổi thay? Có lẽ, không thể nói chi tiết ra được, chỉ bằng giọng điệu, bạn đọc cảm được chất giọng của nhà thơ, lúc đó có thể hòa nhập vào hồn thơ, và rồi tìm thấy điều tưởng chừng như mất mát, nhưng thực chất không mất mát trong chính lòng mình.

Thơ Trần Sang ở phương diện này mang chất giọng xa rất xa – và xa rất xa ấy, chính là gần rất gần nỗi ngậm ngùi. “Ngần ấy năm sống đời xứ chợ / tìm chén cơm trên bước đường lầm lũi / ngày tất bật chưa kịp gặp mặt trời / đêm về gác tay lên trán mà hổ thẹn với vầng trăng quê” (tr.13). Trên bước đường gian truân mưu sinh, người bị vùi dập trong chuỗi ngày đè nặng bởi cơm áo gạo tiền. Sự hổ thẹn với trăng quê, đúng hơn là nỗi day dứt của tâm hồn cứ đau đáu một nỗi quê nhà. Lấy bóng quê làm gương phóng chiếu, nhà thơ Trần Sang cảm nhận rảo vọng vòng danh lợi. “Danh vọng đâu cho kẻ quên đường?”, câu tự vấn của tâm hồn lương tri. Nếm trải sóng gió, nhà thơ nhận ra danh vọng không thể bù đắp cho sự mất mát nguồn cội. Con người vong bản, mất gốc đã đánh mất chính mình thì, danh vọng còn nghĩa lý gì nữa! Và trong ý thơ, cơ hồ ta nhận ra nhà thơ có ý trách nhẹ nhàng những người mải mê chạy theo danh vọng mà đánh mất quê hương.

Nhà thơ nhớ nao lòng những kỷ niệm ngày xưa. Để lòng trôi dạt về quá khứ, Trần Sang bỗng luyến tiếc khôn nguôi một góc nhà, một cây đèn dầu xưa. Lúc đó, hồn thi nhân phủ lên lớp bụi thời gian. Giữa khoảng hư hao của thời tính, hồn thơ như cảm thấy chút khói tàn còn sót lại của ngọn đèn. Ký ức bấy giờ nhập nhoạng mờ xa. Thơ Trần Sang lúc này như mở ra chiều khích quá vãng, mỗi bài thơ như chuyến du hành trở lại quá khứ. Hồn thơ như thể trôi dạt vào cõi xưa. Ở đó, vừa mất vừa còn, vừa nhớ vừa thương, vừa bồi hồi vừa luyến tiếc. “Ai còn nhớ những đêm mưa?/ ánh sáng vàng yếu ớt/ đủ soi sáng/ thế giới trong câu chuyện mẹ kể/ đủ giữ ấm/ một tuổi thơ nghèo khó nhưng tràn đầy yêu thương/ có những thứ/ dẫu im lặng/ vẫn cất giấu âm vang của ngày đã khuất/ cây đèn dầu/ một chứng nhân bất lực/ kể mãi/ câu chuyện không người lắng nghe/ Cây đèn dầu vẫn lặng thầm chờ đợi/ không phải ánh sáng/ mà là đôi bàn tay ai sẽ nâng lên/ thắp lại một niềm tin đã nguội …” (tr.88-89). Trên hết, cuộc du hành thời gian quá vãng là cách để nhà thơ họ Trần gửi gắm niềm thương nỗi nhớ và đến cuối cùng thắp sáng lại một niềm tin. Dù có lụi mờ trong quá khứ nhưng vẫn còn đó, hễ mỗi lần nhắc nhớ như thắp lại ngọn đèn dầu xưa trong góc tủ tâm hồn, con người lấy đó làm điểm tựa, để không lạc mất nguồn cội quê nhà.

Trong thơ Trần Sang, thời gian đời người như tiếng thở dài. Hồi vọng thời gian, thơ Trần Sang mang cảm thức u buồn, sầu muộn, nặng tâm tưởng. Đó là lúc ý thức phản tư và thấy chủ thể trữ tình đứng bên kia dốc người. Ánh nắng hoàng hôn thưa buồn soi lại tuổi thanh xuân, nhà thơ bỗng chốc thấy mình đứng giữa mênh mông. “Bao năm tháng gom đầy trăn trở/ rồi cũng nhòa như hạt bụi bay/ bước quá nửa đời, tôi mới hiểu/ vinh quang nào cũng thoáng mây bay/ lối tôi đi phủ đầy nắng xế/ còn bao mùa để kịp yêu thương/ có ai đợi bên hiên gió lộng/ lặng nghe chiều vọng khúc vô thường” (tr.120). Nhà thơ triết lý về thời gian. Ý nghĩa đời người hiện ra: hư không. Vinh quang, danh lợi đều bị thời gian bôi xóa. Chính vậy, hồn thơ “chỉ có lòng thanh thản mà đi/ ngoài yêu thương tôi giữ được gì? / hòa vào gió, theo cánh thiên di …” (tr.120). Chỉ để gió cuốn đi! Nhưng trong cái biến đổi hư không ấy, yêu thương sẽ lan tỏa cùng những dòng chảy thi ca.

Thương nhớ thời gian, đúng hơn, nhà thơ Trần Sang thương nhớ những giá trị sơ xưa này đã phai nhạt. Những yêu thương nào giờ đã bị thay thế bằng âu lo. Cuộc sống hiện đại bộn bề, khiến con người bị vùi lấp trong “chát chúa nỗi lo”, bị câu kéo bởi “dày thêm toan tính”. Sống như bị kéo vào dòng chảy phóng thể, nhà thơ thèm thời xưa, đúng hơn thèm vị ngọt đời người của thuở nào. Trần Sang “trôi trong niềm hoang hoải/ bên này lở/ bên kia không bồi/ vô định đất trôi/ chát chúa đời phù sa/ lỡ làng nước/ Năm tháng đi qua con đường vẫn thêm sâu/ chát chúa tiếng thở dài/ ngày thôi mệt mỏi/ trên đôi vai nặng gánh/ chát chúa đời gục ngã/ sững sờ người …” (tr.106).

Cảm thức thời gian tạo nên sức nặng cho câu thơ Trần Sang. Thời gian luôn gợi ra trong lòng nhà thơ nỗi niềm mất mát, thương tưởng. Nhất là thời khắc cuối năm. Trong giây phút lắng đọng, nhà thơ với trời đất lặng lẽ nhìn nhau. Không nói, nhưng dường như đã thấu hiểu. Nhà thơ như thấy mình là “cây khô đứng chờ một làn gió mới/ những mùa xanh chưa kịp về” (tr.92). Thời gian tràn qua thổi lùa đi ngày xanh, để sót lại những mảnh vỡ. Ý thơ này khiến ta liên tưởng đến câu thơ Lý Thương Ẩn: “Tương kiến thì nan biệt diệc nan/ Đông phong vô lực bách hoa tàn”. Gió đông phơ phất ấy vậy thổi tàn trăm hoa. Thời gian vô hình nhưng khiến cho niềm vui nhạt nhòa, đời người trôi chảy tan biến. Trong cảm thức như vậy, nhà thơ trở lại với chính mình: “ngày cuối năm/ là lúc tôi đối diện với chính mình/ nhìn sâu vào những vết nứt trong tim/ và hiểu rằng/ nơi ấy, nắng vẫn thắp lên từng ánh sáng/ khiến tôi mạnh mẽ hơn/ không chỉ để tồn tại/ mà để yêu thương” (tr.92).

Thời xưa như mạch ngầm đong đầy thương nhớ mà từ đó hồn thơ thả lòng tắm mát trong những ký ức đẹp đẽ, cũng là cách để hồn thơ thoát khỏi những thúc bách bộn bề của buổi đương thời. Khi đó, hồn thơ còn trang trải những suy tư triết lý.

Dòng chảy suy nghiệm hiện sinh

Thơ Trần Sang với dáng vẻ dung dị nhưng có chiều sâu tư tưởng. Những bài thơ với ngôn ngữ đơn sơ song ẩn chứa suy tư sâu lắng. Bằng hình tượng giản đơn, nhà thơ có khả năng triết luận, tìm vào bản thể đối tượng, ký thác ở đó những suy niệm hiện sinh. Bài thơ “Vòng tròn” như cơn áp thấp suy tưởng. Cây bút vẽ vòng trên giấy, không biết lối nào để thoát, gợi tả sự bế tắc của cuộc sống tù đọng. Sống như thường trực phải lê bước trong mê cung lạc lối. “Thời gian là vòng lặp lại/ mình xoay trong những tháng ngày/ đi mãi có lần sẽ gặp/ chính mình lạc lối hôm nay/ và như thế tôi ở lại/ giữa vòng tròn chẳng ai hay…” (tr.6). Nhận ra điều này tức bắt đầu phản tư, tức hàm chứa khát vọng vượt thoát. Nhà thơ họ Trần nhận diện sự rỗng không của đời sống; đời sống hiện lên như vòng lặp bất tận. Nguy cơ của nó: đời vô nghĩa! Bằng suy tưởng, con người lắp đầy dòng chảy trống rỗng đó. Bởi con người không thể sống với cái rỗng không. Thơ Trần Sang ưng ức nỗi đau hiện sinh, một tâm trạng vây khốn và giãy thoát, một trái tim băn khoăn khôn nguôi về nghĩa lý tồn tại.

Bên cạnh đó, Trần Sang qua thi ca biểu thị truy vấn vào bản chất tồn tại, nghĩa lý của tồn tại, cách thế tồn tại. Sự viết và sự sáng tạo có thể là gì trong đời sống này, mỗi con người, mỗi chặng đường đời có thể như “một cuốn sách chưa hoàn thành” hay một trang còn viết dở. Và sự viết có phải cách để chủ thể sáng tạo thành toàn đời sống? Liệu có thể thành toàn “hay chỉ là một bản thảo khác”. Bài thơ của Trần Sang liên tục là những câu hỏi. Có lẽ, với thi ca, với nghệ thuật nói chung, con người chỉ có thể nêu ra những truy vấn mà không thể chạm đến câu trả lời. Nhà thơ để dành việc đó cho tâm tưởng mỗi người đọc. “Vậy nếu tôi dừng lại/ không đi tiếp, không viết tiếp/ thế giới này có mất đi một dòng chữ/ hay chỉ là một bản thảo khác/ chờ ai đó chỉnh sửa lần cuối?” (tr.122).

Về nỗi cô đơn, trống trải trong xã hội tiêu thụ, Trần Sang suy niệm từ hình ảnh chiếc ghế trống. Ký ức chiếc ghế liệu có gắn với con người nào đó! Dòng suy nghĩ chảy tràn ra. Nhà thơ nhận thấy con người đã bị bôi xóa khởi sự vật như thế nào. Sự lập thành giá trị của sự vật, cố nhiên không thể thiếu dấu vết con người. Nhưng bấy giờ, trong xã hội tiêu thụ, ngược lại con người lại lấm lem giá trị sự vật. Mối liên hệ giữa người và thế giới thực tướng chung quanh tan rã; như cậu học trò chẳng còn leo trèo trên chiếc ghế đá học trò, lời tâm tình ghế đá công viên thay bằng máy móc tiêu thụ, ghế trống trong lòng người trở nên vết lõm nặng nề “lấp đầy bằng những like, share, subcribe/ như chưa từng chạm đến nỗi cô đơn” (tr.108), ráo hoảnh! Thơ Trần Sang nặng tính phản tư, nhà thơ nhìn để rồi trở về tới tâm tưởng chính mình, để dẫn dắt dòng chảy đó đưa bạn đọc nhận ra điều gì đó! “chiếc ghế trống/ là nơi ta tự đánh mất chính mình/ hay là lời nhắc nhở/ rằng đôi khi/ không cần ngồi xuống mà cần đứng lên?” (tr.108). Nguyên động lực siêu hình nào đó ẩn chứa trong hồn thơ Trần Sang, chính nó khiến người cầm bút không thể không cầm bút, đó là nội lực xô đẩy để chủ thể suy tưởng. Nó thường trực khiến chủ thể phải ưu tư về tồn tại.

Suy tưởng và thi ca hòa quyện, hồn thơ Trần Sang cắt nghĩa tồn tại. “Tồn tại là sự chấp nhận/ không phải chạy trốn” (tr.41). Phải đối diện với chính cuộc hiện hữu, để truy cầu và trong đó nghĩa lý tồn tại hiển hiện ra. Đi xa hơn, nhà thơ ưu tư về tự do và ràng buộc. “Ngọn cỏ nhỏ giữa cơn bão/ cúi mình để đứng vững/ đôi khi tự do/ là biết cách/ tồn tại giữa bốn bề ràng buộc” (tr.41). Việc bứt phá ràng buộc rất có thể khiến hồn người lại sa vào ràng buộc khác. Và còn hơi thở, không thể không bị ràng ruộc. Cho nên đã có triết gia nào nói rằng sống tức là lưu đày biệt tích, cũng có triết gia cho rằng sống là phi lý cố nhiên. Nhưng một khi đối diện, và dù chỉ chấp nhận thôi, ngọn cỏ tự do liền phất phơ trong gió!

Đi sâu vào tâm hồn con người, Trần Sang mang lại không chỉ hành trình tìm về bản thể mà trên hành trình đó, nhà thơ cho bạn đọc cơ hội cảm nghiệm tổn thương trong không gian mơ tưởng. Giấc mơ là phương thức nghệ thuật hữu hiệu để chủ thể sáng tạo đào sâu vào phần tàng khuất của tâm hồn. Trong đó, nhà thơ nhận diện niềm đau, nhặt từng mảnh vỡ. “Đêm lạnh/ tôi ngồi bên những mảnh vỡ/ và tự hỏi/ có ai từng vá được một giấc mơ nứt vỡ?” (tr.104). Câu hỏi ấy, nhà thơ Trần Sang không chỉ hỏi mình, mà đặt ra cho mỗi người đọc. Ai từng vỡ vụn tâm hồn và ai từng chắp vá mảnh vụn giấc mơ. Trong miền tâm tưởng sâu thẳm, ai hẳn cũng từng bị tổn thương, có những niềm đau tưởng đã lành lặn nhưng thực ra chỉ nằm im đó, chìm vào tiềm thức, chứ không mất hẳn đi. Niềm đau ấy cho đến cuối cùng trở thành vết tích con người trên hành trình sống trải. Giá trị đời người nhiều khi đến từ những vụn vỡ như vậy!

Đôi lời kết

Thơ Trần Sang mang vẻ ngoài giản dị, gần gũi với đời sống thường nhật, nhưng ẩn chứa bên trong là những dòng chảy tâm tư, chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, con người và xã hội. Sự bình dị trong thơ Trần Sang không hời hợt mà chứa đựng những mạch ngầm suy tưởng, triết lý. Bên cạnh đó, thơ Trần Sang phản ánh bối cảnh xã hội hiện đại, đặc biệt là sự ảnh hưởng của công nghệ, đô thị hóa, và sự thay đổi trong mối quan hệ giữa con người với nhau. Trong đó, Trần Sang nhìn thấy và diễn tả được những vấn đề nhức nhối của thời đại, như sự lệ thuộc vào công nghệ, sự xói mòn của tình người, và sự mất mát các giá trị truyền thống. Không dừng lại ở việc miêu tả hiện thực, trang thơ Trần Sang còn đi sâu vào những suy tưởng về bản chất tồn tại, ý nghĩa cuộc sống, và sự cô đơn của con người trong xã hội hiện đại; và thường đặt ra những truy vấn hiện sinh nặng ưu tư chiêm nghiệm, khơi gợi người đọc suy ngẫm về thân phận con người và thế giới xung quanh.

Hồn thơ Trần Sang đậm tính nhân văn, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến con người, đến những giá trị tinh thần và tình cảm. Mắt thơ nhìn thấy và phản ánh được những vấn đề của xã hội hiện đại, đồng thời kêu gọi sự trở về với những giá trị nhân bản, với tình yêu thương và sự tử tế. Kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ giản dị và những suy tưởng sâu sắc, Trần Sang khéo léo sử dụng hình ảnh thiên nhiên, những chi tiết đời thường để diễn tả những cảm xúc và triết lý phức tạp, tạo nên sức hấp dẫn và sự đồng cảm với người đọc. Nhờ đó, trang thơ Trần Sang còn là hành trình tìm kiếm sự bình yên, sự chữa lành trong tâm hồn. Cảm xúc thơ trong trẻo, nhẹ nhàng hòa quyện chất triết lý suy nghiệm, thơ Trần Sang là những giây phút lắng lòng với chính mình để nhận diện vẻ đẹp cuộc đời, nhận diện trong đắng cay có biết bao ngọt bùi từ cay đắng sinh sôi nảy nở!

TRẦN BẢO ĐỊNH