Tiềm năng du lịch gắn với các giá trị văn hóa huyện Tri Tôn

  1. Mở đầu

Tri Tôn là huyện sở hữu cảnh quan tự nhiên rất khác biệt so với đặc điểm chung của Tây Nam Bộ, đó là núi giữa đồng bằng. Đặc biệt, huyện còn sở hữu kho tàng văn hóa đa dạng, nổi bật là văn hóa tộc người Khmer và văn hóa tôn giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Do đó, Tri Tôn có nhiều lợi thế trong hoạt động du lịch. Du lịch vừa khai thác các giá trị văn hóa để đóng góp vào sự phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Tuy vậy, do điều kiện địa phương còn khó khăn, đến nay hoạt động du lịch ở đây chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Phát triển du lịch huyện Tri Tôn dựa vào văn hóa đòi hỏi có lộ trình bài bản, định hướng hợp lý, sự kết hợp chặt chẽ của nhiều yếu tố…

  1. Đặc điểm địa lý tự nhiên huyện Tri Tôn

Tri Tôn là huyện miền núi và biên giới ở phía Tây của tỉnh An Giang. Huyện có diện tích tự nhiên lớn nhứt tỉnh là 600,2 km² và chiếm gần 17% diện tích toàn tỉnh. Tuy nhiên, huyện lại có dân cư thưa thớt nhứt tỉnh với 117.431 người, mật độ dân số đạt 196 người/km² [Tổng cục Thống kê 2020: 39]. Huyện có 15 đơn vị hành chánh trực thuộc, gồm 3 thị trấn là Tri Tôn (huyện lỵ), Ba Chúc, Cô Tô và 12 xã là Lạc Quới, Lê Trì, Vĩnh Gia, Vĩnh Phước, Châu Lăng, Lương Phi, Lương An Trà, An Tức, Núi Tô, Ô Lâm, Tà Đảnh, Tân Tuyến.

Phía Bắc và Đông Bắc huyện Tri Tôn giáp thị xã Tịnh Biên (tỉnh An Giang) và Vương quốc Cambodia, phía Đông giáp huyện Châu Thành và Thoại Sơn (tỉnh An Giang), phía Tây và Tây Nam giáp huyện Hòn Đất và Giang Thành (tỉnh Kiên Giang). Đặc biệt, quan sát trên bản đồ, chúng ta có thể nhận thấy thị trấn huyện lỵ Tri Tôn nằm ở vị trí trung tâm của bốn thành phố lớn là Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá – nói cách khác là trung tâm của tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên.

Nhìn chung, huyện Tri Tôn có vị trí địa lý khá thuận lợi trong kết nối các tuyến du lịch từ Khu du lịch quốc gia Núi Sam (thành phố Châu Đốc) đến Khu du lịch Núi Cấm, Điểm du lịch Rừng tràm Trà Sư, Cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên (thị xã Tịnh Biên) và Di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo – Ba Thê (huyện Thoại Sơn)… Không chỉ ở phạm vi tỉnh An Giang, huyện Tri Tôn còn có khả năng kết nối các điểm tham quan nổi tiếng ở tỉnh Kiên Giang như bãi biển Mũi Nai (thành phố Hà Tiên), hòn Phụ Tử (huyện Kiên Lương), đình thần Nguyễn Trung Trực (thành phố Rạch Giá)…

Về địa hình, cảnh quan nổi bật của Tri Tôn là đồi núi. Huyện Tri Tôn và thị xã Tịnh Biên là hai địa phương sở hữu dãy Thất Sơn nổi tiếng. Dù có tên gọi là Thất Sơn hay Bảy Núi, nhưng thực chất cả tỉnh An Giang có 37 ngọn núi. Đây là một quần thể núi trải dài trên những cánh đồng rộng lớn, tạo nên cảnh quan lạ mắt so với đặc điểm chung của khu vực Tây Nam Bộ. Trong đó, huyện Tri Tôn có 7 ngọn núi bao gồm núi Nam Quy (xã Châu Lăng), núi Sà Lôn (xã Lương Phi), núi Dài (xã Châu Lăng, xã Lương Phi, Lê Trì, thị trấn Ba Chúc), núi Tượng, núi Nước (thị trấn Ba Chúc), núi Tà Pạ (xã Núi Tô, An Tức), núi Tô (thị trấn Cô Tô, xã Núi Tô, Ô Lâm, An Tức). [1]

Trên núi có không khí trong lành, mát mẻ, thiên nhiên nguyên sơ, kỳ bí. Trong những cánh rừng bạt ngàn có nhiều cổ thụ quý hiếm như giáng hương, căm xe, cà chắc, sao đen, sao đá, gõ mật, huỳnh đàn, sến, bằng lăng, cẩm lai… Ngoài ra, người dân còn tận dụng đồi núi để trồng cây ăn trái. Bên cạnh đó, nhiều ngọn núi còn gắn với những di tích lịch sử, tôn giáo, giai thoại… Ngày nay, khi du lịch phát triển, chúng trở thành những địa điểm thu hút du khách đến hành hương, ngoạn cảnh, giải trí… Đặc biệt, núi Tô, núi Tà Pạ, núi Dài, núi Tượng có tiềm năng du lịch và thực sự đã thu hút đông đảo du khách trong nhiều năm qua.

Núi Tô có tên Khmer là Kto, người Việt gọi là núi Tô, sau đó thi vị hóa là Cô Tô, lại đặt thêm tên chữ là Phụng Hoàng sơn. Đây là ngọn núi cao thứ hai trong dãy Thất Sơn (sau núi Cấm ở thị xã Tịnh Biên), có cảnh quan đẹp, được mệnh danh là “núi ngọc” của đồng bằng. Trên núi có nhiều điểm tham quan lý thú như cốc Ông Bộ, điện Năm Căn, vồ Hội, điện Kín, chùa Bồng Lai, chùa Vân Long… Không chỉ vậy, xung quanh chân núi có những hồ nước có khung cảnh nên thơ như Soài So, Soài Chek, Ô Thum…

Tà Pạ là ngọn núi nhỏ nằm cạnh núi Tô, cách thị trấn Tri Tôn khoảng 1 km. Nơi đây nổi tiếng với hồ Tà Pạ, từ hố đá sâu được hình thành do khai thác đá đã trở thành hồ nước lung linh màu xanh ngọc giữa bốn bề núi non, được du khách ví von là “tuyệt tình cốc” của miền Tây. Trên núi, chúng ta có thể viếng chùa Tà Pạ với nét nổi bật là được chống đỡ bởi hàng cột kỳ vĩ bên sườn núi, nên được gọi là “ngôi chùa trên không”.

Từ trị trấn Tri Tôn, du khách đi về hướng biên giới, có thể tham quan núi Dài và núi Tượng. Núi Dài còn gọi là núi Dài Văn Liên, núi Dài Lớn (để phân biệt với núi Dài Năm Giếng là núi Dài Nhỏ ở thị xã Tịnh Biên), tên chữ là Ngọa Long sơn. Núi Dài mang đậm vẻ nguyên sơ của tự nhiên, ít chịu ảnh hưởng bởi những tác động của con người. Ngoài sự hùng vĩ, ngọn núi còn gây ấn tượng cho du khách bởi những khu rừng tầm vông, những vườn trái cây xanh mát…

Núi Tượng có tên chữ là Liên Hoa sơn, chiều cao và diện tích không quá lớn, nhưng cũng là một thắng cảnh của địa phương. Trên núi có nhiều đồi, vồ, hang… như đồi Ba Khoanh, vồ Đá Dựng, vồ Cây Da, hang Ba Lê… Đường lên núi nhỏ hẹp, quanh co, nhiều đoạn dốc, hai bên có nhiều cây rừng hoang dại như như trâm, sung, săn máu… xen lẫn với cây ăn trái do người dân trồng như xoài, mít, me, đào…

Đặc biệt, huyện Tri Tôn có rừng tràm Tân Tuyến với diện tích 256,93 ha là khu rừng tràm ngập nước tiêu biểu của tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên. Tính đến năm 2023, nơi đây đã ghi nhận sự có mặt của 154 loài thực vật, 63 loài chim, 82 loài cá… [Thái Văn Nhân 2023: 1]. Tương tự rừng tràm Trà Sư (thị xã Tịnh Biên), rừng tràm Tân Tuyến giàu tiềm năng khai thác du lịch sinh thái kết hợp với bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên hiện ra, hoạt động du lịch ở đây vẫn chưa được triển khai.

Tuy là huyện miền núi, Tri Tôn vẫn có mạng lưới sông ngòi kinh rạch chằng chịt, tương tự đặc điểm chung của đồng bằng sông Cửu Long. Các tuyến đường thủy quan trọng trên địa bàn huyện là các kinh Vĩnh Tế, Tám Ngàn, Ninh Phước, Mặc Cần Dưng, Tri Tôn, Ba Thê, Huệ Đức… Chúng phục vụ đời sống sinh hoạt của người dân, sản xuất nông nghiệp, giao thông đường thủy, đặc biệt là nhiều kinh rạch có vai trò thoát nước ra biển Tây vào mùa nước nổi.

  1. Tài nguyên văn hóa trên địa bàn huyện Tri Tôn

Tri Tôn có nhiều di tích lịch sử, di sản văn hóa giàu giá trị. Theo thống kê của địa phương tính đến năm 2023, huyện có 140 di tích, trong đó có 7 di tích cấp quốc gia, 5 di tích cấp tỉnh [Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn 2023a: 1]. Đặc biệt, huyện có 3 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và đều gắn với văn hóa Khmer là Hội đua bò Bảy Núi, Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông, Nghệ thuật sân khấu Dì kê. Những sinh hoạt văn hóa đa dạng của cộng đồng các tộc người đã mang đến cho huyện miền núi Tri Tôn diện mạo văn hóa phong phú và đặc sắc.

Bên cạnh người Việt (Kinh) chiếm đa số, Tri Tôn có cộng đồng Khmer sinh sống đông đảo với tỷ lệ gần 40% dân số toàn huyện, còn lại là bộ phận nhỏ người Hoa. Người Khmer theo Phật giáo Theravāda (Thượng tọa bộ) còn gọi là Phật giáo Nam tông, với hai nhánh là Mahā Nikāya (Đại tập bộ) và Dhammayuttika Nikāya (Pháp thuận bộ). [2] Do đó, Tri Tôn có nhiều ngôi chùa nguy nga, màu sắc rực rỡ, trang trí sống động, mang đậm đặc trưng kiến trúc Khmer. Tiêu biểu như chùa Xà Tón, chùa Prey Veng, chùa Sà Lôn, chùa Krăng Krôch, chùa Phnom Pi, chùa Tưk Phôs, chùa Koh Kas, chùa Soài So…

Chùa Xvayton ở thị trấn Tri Tôn là công trình kiến trúc nổi tiếng. Có hai lý giải về tên chùa. Trước nay, ngành văn hóa địa phương giải thích rằng tên chùa bắt nguồn từ Svaton, có nghĩa là khỉ đeo (sva: khỉ, ton: đeo), do ngày xưa nơi đây rừng rậm hoang vu, khỉ thường níu kéo người đi đường. Song, lý giải nầy không được đông đảo cộng đồng cư dân ủng hộ. Người Khmer giải thích rằng tên chùa bắt nguồn từ Svayton, có nghĩa là xoài dây (svay: xoài, ton: dây), do ngày xưa nơi đây mọc nhiều cây xoài dây. Từ Xvayton, người Việt gọi trại là Xà Tón – vừa là tên chùa cũng vừa là tên vùng đất, các thư tịch triều Nguyễn phiên âm là Đài Tốn, về sau có thêm địa danh Hán hóa là Tri Tôn.

Chùa Xà Tón ra đời từ khi nào, không ai còn nhớ rõ, chỉ biết đã tồn tại khoảng 300 năm. Buổi đầu, chùa được xây cất đơn sơ, nền đất, vách gỗ, mái lá. Năm 1896, chùa được xây dựng kiên cố như hiện nay. Chùa có bộ nóc nhọn, cong vút, các đường bờ nóc có biểu tượng rắn thần Nāga thể hiện dũng mãnh và bất diệt. Mái chùa được lợp từ những viên ngói nhiều màu sắc, khi nắng thì lớp ngói nầy sẽ ánh lên màu sắc rạng rỡ. Xung quanh chùa là khuôn viên rộng lớn, thoáng mát với nhiều cây xanh, phía trước có hồ nước phẳng lặng soi bóng những hàng cây.

Tọa lạc ở xã Núi Tô, chùa Soài So nổi tiếng là nơi truyền dạy phương pháp chế tác kinh lá buông của người Khmer. Đại trưởng lão [3] Chau Ty (sinh năm 1941) là truyền nhân thứ chín của loại hình nầy. Hiện nay, ngài là Sư cả (trụ trì) chùa Soài So, đồng thời là nhà sư cao tuổi nhứt trong cộng đồng Phật giáo Khmer tỉnh An Giang, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng Chau Ty được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú vào năm 2015 và Nghệ nhân nhân dân vào năm 2019.

Người Khmer hằng năm có nhiều lễ hội rất phong phú, mà phần lớn gắn liền với không gian ngôi chùa. Trong đó, lễ hội dân gian tiêu biểu như Choul Chnam Thmey (Chôl Chnăm Thmây) là lễ đón năm mới vào các ngày 13 – 14 – 15 tháng 4 dương lịch, Sen Daunta (Sen Đôn-ta) là lễ cúng ông bà từ ngày 29 tháng 8 đến mùng 1 tháng 9 âm lịch, Ak Ambok (Oóc Om-bóc) là lễ đút cốm dẹp vào khoảng rằm tháng 10 âm lịch… [4] Bên cạnh đó, các lễ hội Phật giáo tiêu biểu như Meak Bochea là lễ Pháp bảo vào rằm tháng Giêng âm lịch, Vesak Bochea là lễ Tam hợp (Đản sanh, Thành đạo, Niết bàn) vào rằm tháng 4 âm lịch, Chaul Vassa là lễ bắt đầu an cư mùa mưa vào rằm tháng 6 âm lịch, Chenh Vassa là lễ kết thúc an cư mùa mưa vào rằm tháng 9 âm lịch, Kathina là lễ dâng y vào một ngày trong thời gian từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 10 (tùy lựa chọn của mỗi chùa)…

Nói đến lễ hội của người Khmer, không thể không nói đến Hội đua bò Bảy Núi diễn ra nhân dịp lễ Sen Daunta hằng năm. Nhiều năm qua, hai địa phương Tịnh Biên và Tri Tôn luân phiên tổ chức giải đua bò, thu hút hàng chục đôi bò trong và ngoài tỉnh tham gia, với hai sân đua quen thuộc ở chùa Thơ Mít (xã Vĩnh Trung, thị xã Tịnh Biên) và chùa Tà Miệt (xã Lương Phi, huyện Tri Tôn). Đây là cuộc tranh tài sôi nổi và kịch tích, thu hút hàng vạn khán giả đến thưởng thức và cổ vũ bằng cả hai thứ tiếng Việt và Khmer, tạo nên không gian văn hóa rất đặc trưng của vùng đồi núi An Giang.

Nghệ thuật diễn xướng dân gian Khmer rất đa dạng và hấp dẫn với nhiều loại hình như biểu diễn nhạc ngũ âm, trống chhayam (sa-dăm), sân khấu yike (dì-kê), múa robam (rô-băm), múa romvong (lâm-vông), hát đối đáp ayai (aday), chapei dang veng (chầm-riêng chà-pây)… Trong đó, dì-kê là nghệ thuật sân khấu cổ truyền, nội dung các vở diễn thường khai thác các câu chuyện về cuộc đời Đức Phật hoặc các câu chuyện từ Jātaka (Chuyện tiền thân) trong kinh điển Phật giáo. Cùng với kỹ năng diễn xuất, phần trang phục được đầu tư công phu sao cho phù hợp với mỗi tuồng tích, song song đó là dàn nhạc cụ dân tộc rất phong phú để làm nên sự sống động cho tác phẩm.

Không chỉ có cộng đồng Khmer, huyện Tri Tôn là trung tâm của tôn giáo bản địa Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Có thể nói, văn hóa tộc người Khmer và văn hóa tôn giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là hai kho tàng vô giá của vùng đất nầy. Các xã, thị trấn ở xung quanh núi Dài, núi Tượng và ven biên giới là địa bàn tập trung nhiều chùa, đình, miễu… của tôn giáo nầy với những giá trị độc đáo mà không tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác. Trong đó, chùa Tam Bửu và Phi Lai ở thị trấn Ba Chúc được xem là tổ đình.

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời vào năm 1867. Người sáng lập là Ngô Lợi (1831 -1890), tên thật là Ngô Viện, tín đồ tôn xưng là Đức Bổn Sư, quê quán ở Mỏ Cày (Bến Tre). Năm 1876, ông và tín đồ đến núi Tượng khẩn hoang, lập bốn thôn An Định, An Hòa, An Thành, An Lập. Năm 1878, ông tổ chức khởi nghĩa chống Pháp ở Cai Lậy (Tiền Giang) nhưng thất bại, trốn về núi Tượng tiếp tục xây dựng mật khu kháng chiến và truyền đạo. Từ đây, Pháp liên tục tấn công bảy lần vào núi Tượng để bắt ông, nhưng đều không tìm được. Sau khi ông qua đời, phong trào kháng Pháp tan rã, chỉ còn đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.

Hai chùa Tam Bửu và Phi Lai còn là chứng tích tội ác diệt chủng, nơi quân đội Pol Pot sát hại dã man 3157 người vào cuối tháng 4 năm 1978. Trong khuôn viên chùa, nhà mồ Ba Chúc là nơi bảo quản 1159 hài cốt nạn nhân, được xây dựng theo hình lục giác vào năm 1979, tái thiết theo hình hoa sen vào năm 2015. Tại đây vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hằng năm, người dân Ba Chúc tổ chức lễ giỗ tập thể, còn gọi là giỗ hội, nhằm tưởng niệm những nạn nhân trong vụ thảm sát.

Ngoài ra, ẩm thực cũng là một trong những nét nổi bật của huyện Tri Tôn. Nơi đây nổi tiếng với các đặc sản như gà đốt Ô Thum, cháo bò Tri Tôn, bò xào lá giang, bò nướng, ếch nướng, gỏi đu đủ đâm, bánh canh bánh cam (bánh canh ăn cùng với bánh cam), bánh katom (kà-tum), cốm dẹp, các sản phẩm từ thốt nốt… Du khách có thể thưởng thức tại chỗ hoặc mua làm quà tùy theo từng đặc sản. Nhìn chung, tất cả các tài nguyên văn hóa nói trên là tiềm năng để du lịch Tri Tôn phát triển, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của huyện và sự phát triển của ngành du lịch tỉnh An Giang.

  1. Thực trạng và định hướng phát triển du lịch huyện Tri Tôn

Tri Tôn là huyện miền núi và biên giới, xuất phát điểm thấp, còn gặp nhiều khó khăn. Phần lớn người dân sống dựa vào nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi nhỏ lẻ, một bộ phận sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làm thuê mướn theo thời vụ… Do đó, với tiềm năng sẵn có về tự nhiên và văn hóa, du lịch được huyện xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, có khả năng thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương phát triển bền vững.

Thời gian qua, để phát huy tiềm năng du lịch, huyện Tri Tôn đã tập trung công tác quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng và phát triển các sản phẩm và dịch vụ đặc trưng… Huyện đã chỉnh trang, tôn tạo các điểm tham quan, di tích lịch sử – văn hóa trọng điểm như Khu Thể thao – Du lịch Tà Pạ – Soài Chek, chùa Phi Lai, chùa Tam Bửu, chùa Svayton… Song song đó, huyện đã và đang từng bước nâng cấp hạ tầng giao thông liên kết các khu điểm du lịch trong và ngoài địa phương. Đặc biệt, giai đoạn sau dịch bệnh Covid-19, địa phương đã đẩy mạnh phục hồi và phát triển du lịch thông qua tổ chức nhiều hoạt động nổi bật như biểu diễn khinh khí cầu, dù lượn, diều lượn, máy bay mô hình, mô tô địa hình…

Không chỉ có chính quyền, người dân cũng tích cực tham gia vào các hoạt động du lịch. Chỉ trong hai năm 2022 – 2023, hàng loạt cơ sở lưu trú theo phong cách cắm trại ra đời ở huyện Tri Tôn, với đặc điểm chung là khai thác lợi thế của cảnh quan đồi núi. Tiêu biểu như An Suối Garden (xã Núi Tô), Th’nôt Homestay (xã An Tức), Ganesha Camping (xã Ô Lâm), Bảy Núi Farm (xã Lương Phi), Garden Camp (xã Lương Phi)… [Tư liệu điền dã 2023].

Kết quả là các sản phẩm và dịch vụ du lịch của huyện Tri Tôn không chỉ ngày càng đa dạng về số lượng, mà còn nâng cao về chất lượng. Song song đó, cơ sở hạ tầng từng bước được hoàn thiện, công tác quản lý các điểm tham quan được củng cố, bước đầu xây dựng được thương hiệu và uy tín đối với khách du lịch. Năm 2023, tỉnh An Giang đón khoảng 8,3 triệu lượt khách [Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang 2023: 7]. Trong đó, huyện Tri Tôn đón khoảng 1,1 triệu lượt khách [Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn 2023b: 6].

Tuy nhiên, theo nhận định của Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn, bức tranh du lịch của địa phương còn mờ nhạt so với toàn cảnh của tỉnh. Những nguyên nhân có thể kể đến như sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chủ yếu dựa vào tài nguyên sẵn có, ít được đầu tư, liên kết vùng chưa hiệu quả, cơ sở hạ tầng giao thông còn hạn chế, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao, thiếu chuyên nghiệp trong hoạt động du lịch… [Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn 2023a: 2]. Do đó, tìm kiếm giải pháp để vực dậy du lịch là mối quan tâm của địa phương.

Như đã nói, tài nguyên văn hóa đa dạng của cộng đồng các tộc người và tôn giáo, kết hợp với cảnh quan đồi núi đặc thù đã tạo cho vùng đất Tri Tôn những điều kiện thuận lợi để hình thành các loại hình du lịch đặc trưng trong thời gian qua như du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch thể thao. Từ nền tảng đó, đồng thời dựa vào xu hướng của khách du lịch hiện nay – đặc biệt là giới trẻ, huyện có thể tiếp tục củng cố các sản phẩm du lịch hiện hữu, xây dựng các sản phẩm du lịch mới trong giai đoạn tiếp theo, với các định hướng chủ đạo:

– Du lịch văn hóa: Khai thác tốt các hoạt động tham quan, về nguồn, tìm hiểu những di tích lịch sử, di sản văn hóa, cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo… tại địa phương. Xây dựng sản phẩm du lịch cộng đồng gắn với trải nghiệm văn hóa Khmer vùng Bảy Núi, đặc biệt là các Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trên địa bàn huyện.

– Du lịch sinh thái kết hợp với nghỉ dưỡng: Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở lưu trú dựa vào lợi thế cảnh quan núi rừng, kết hợp với đa dạng hóa các hoạt động trải nghiệm của du khách về thiên nhiên và văn hóa trong thời gian lưu trú… Huyện cần phối hợp với các sở ngành và doanh nghiệp để khai thác du lịch tại rừng tràm Tân Tuyến.

– Du lịch thể thao: Phát huy các loại hình thể thao truyền thống và hiện đại trên địa bàn huyện như đua bò, mô tô địa hình, marathon, dù lượn… Bên cạnh đó, các hoạt động thể thao cần kết hợp với quảng bá văn hóa địa phương như lễ hội, nghệ thuật, ẩm thực… để làm nên màu sắc khác biệt của du lịch thể thao tại Tri Tôn và gây hứng thú cho du khách.

Nhìn chung, trong hành trình mà du khách khám phá vùng đất Tri Tôn, dù loại hình chủ đạo là sinh thái, nghỉ dưỡng, thể thao, mạo hiểm… nhưng chắc hẳn văn hóa địa phương là yếu tố mà khách sẽ quan tâm ít hoặc nhiều. Do vậy, huyện cần chủ động phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch gắn với đặc trưng văn hóa, nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của nhiều đối tượng du khách. Bên cạnh trải nghiệm chính, du khách có thể kết hợp các trải nghiệm phụ trong chuyến đi như tìm hiểu làng nghề thốt nốt, xem biểu diễn nghệ thuật dì-kê, thưởng thức các đặc sản vùng Bảy Núi…

Song song đó, huyện cần đẩy mạnh đầu tư và kêu gọi đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du khách, đặc biệt là giao thông và lưu trú. Về giao thông, phần lớn các tuyến đường ở Tri Tôn còn nhỏ hẹp, một số đã xuống cấp, thiếu khả năng đáp ứng số lượng phương tiện lớn. Điều đó đòi hỏi địa phương cần tranh thủ các nguồn lực để nâng cấp, mở rộng các tuyến đường, đặc biệt là những trục lộ quan trọng. Về lưu trú, Tri Tôn đã phát triển các khu lưu trú theo hình thức cắm trại, nhưng loại hình nầy chủ yếu hướng đến giới trẻ. Trong khi đó, huyện ít có khách sạn sang trọng, đa phần là nhà nghỉ bình dân, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng các nhóm đối tượng du khách khác nhau.

Tuy nhiên cần lưu ý, khai thác du lịch gắn với văn hóa cần tôn trọng truyền thống của cộng đồng cư dân, thay vì chỉ dựa vào ý chí chủ quan của nhà quản lý. Đây là một trong những hạn chế của Tri Tôn. Đơn cử, huyện xây dựng sân đua bò tại Khu Thể thao – Du lịch Tà Pạ – Soài Chek, vừa tách nó khỏi không gian văn hóa là ngôi chùa, vừa lựa chọn địa hình chưa phù hợp với bộ môn nầy, mặt khác đã dẫn đến “xóa xổ” sân đua bò truyền thống hàng chục năm ở chùa Tà Miệt (xã Lương Phi). Trái lại, địa phương lân cận là thị xã Tịnh Biên đã giữ gìn và phát huy sân đua bò truyền thống ở chùa Thơ Mít (xã Vĩnh Trung) gắn kết chặt chẽ giữa du lịch và thể thao với văn hóa. Bởi thế, trong định hướng phát triển du lịch dựa trên nền tảng văn hóa, huyện Tri Tôn cần quan tâm đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống, cân bằng giữa lợi ích kinh tế và tập tục cộng đồng, không gây biến dạng những đặc trưng vốn có của các di sản.

  1. Kết luận

Mặc dù còn nhiều khó khăn, bù lại huyện Tri Tôn có thế mạnh là không chỉ sở hữu địa hình hiếm có ở Tây Nam Bộ, mà còn giàu tài nguyên văn hóa. Do đó, phát triển du lịch ở đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao thu nhập cho người dân. Việc khai thác các giá trị văn hóa phục vụ du lịch không chỉ góp phần quảng bá nét đẹp của vùng đất và con người Tri Tôn, hướng đến phát triển du lịch bền vững, mà còn góp phần bảo tồn, lưu truyền và phát huy giá trị văn hóa cộng đồng. Nếu có thể khai thác một cách sáng tạo các tiềm năng sẵn có, chắc hẳn huyện Tri Tôn sẽ trở thành một trong những vùng đất thu hút khách du lịch hàng đầu An Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung.

 

Bài: VĨNH THÔNG
Ảnh: Nghi lễ sớt bát – Nguyễn Min Thành

 


CHÚ THÍCH:

[1]. Địa chí An Giang liệt kê núi Tà Lọt thuộc xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn. Thông tin nầy không chính xác. Thực tế nó thuộc xã An Hảo, thị xã Tịnh Biên.

  1. 2. Tác giả viết theo chữ Pāli Latinh hóa. Pāli là ngôn ngữ truyền bá Tam tạng Thánh điển Phật giáo Thượng tọa bộ. Nếu viết theo chữ Khmer Latinh hóa, tên hai bộ phái lần lượt là Mohanikay và Thommoyutteka Nikay.
  2. 3. Bia đá đặt tại cổng chào huyện Tri Tôn viết: “Người Kinh phát âm là Xà Tón và lâu ngày nói trại thành Tri Tôn”. Điều đó chưa chính xác, vì Xvayton bị nói trại thành Xà Tón, còn Xà Tón trở thành Tri Tôn là đặt mới địa danh Hán Việt dựa trên địa danh dân gian, do tầng lớp trí thức Nho học chủ trương, không phải là nói trại.
  3. 4. Danh hiệu Mahāthera theo truyền thống Phật giáo Nam Tông.
  4. Tác giả viết tên lễ hội theo chữ Khmer Latinh hóa tiêu chuẩn quốc tế. Các cách viết trong ngoặc đơn là ký âm của người Việt khi nghe từ phát âm của người Khmer.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Nhiều tác giả (2013), Địa chí An Giang, Sở Thông tin và Truyền thông An Giang.
  2. Thái Văn Nhân (2023), “Công tác khai thác, quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Tân Tuyến”, Tham luận, Hội thảo Khai thác, bảo vệ và sử dụng khôn khéo các vùng đất ngập nước trên địa bàn tỉnh An Giang.
  3. Tổng cục Thống kê (2020), Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Nxb Thống kê.
  4. Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn (2023a), “Thực trạng và định hướng khai thác, phát triển sản phẩm, dịch vụ du lịch trên địa bàn huyện Tri Tôn”, Tham luận, Hội nghị tổng kết công tác ngành văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch năm 2022 và triển khai phương hướng nhiệm vụ năm 2023, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An Giang.
  5. Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn (2023b), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2024, số 417/BC-UBND, ngày 30/11/2023.
  6. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2023), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2024, số 1151/BC-UBND, ngày 30/11/ 2023.