Mênh mang tầm vông quê tôi

Dọc theo triền núi Dài – tên chữ là Ngọa Long Sơn, thuộc các xã Lương Phi, Lê Trì và thị trấn BaChúc... mênh mông, bạt ngàn là tầm vông và tầm vông.Tầm vông một loài cây gắn bó bao đời nay với người nông dân Nam Bộ nói chung và người nông dân vùngBảy Núi nói riêng. Tầm vông là loại tre nhỏ cây, thân thẳng, to chừng bằng bắp tay, cao từ 6m đến 8m đặc ruột, không có gailớn nhanh. Sách “Đại Nam nhất thống chí” phần thổ sản ở tỉnh An Giang có ghi loại “trúc đặc ruột”

Cũng như tre, tầm vông không kén đất, chịu đựng được nắng gió khí hậu khắc nghiệt. Ở núi Dài, chen trong kẹt đá người ta thấy có những bụi tầm vông nhỏ, hình tướng rất chi là đèo đẹt, gọi “tầm vông đá”, về chất lượng thì đúng là… cứng như đá. Nhà thơ Nguyễn Duy đã khái quát những đặc tính của tre trong đó có tầm vông đó cũng là phẩm chất của người nông dân Viêt Nam: “M màu ít chắt dồn lâu hóa nhiều/ rễ siêng không ngại đất nghèo/ Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù và đây nữa Nòi tre đâu chịu mọc cong/ chưa lên đã nhọn như chông lạ thường/ lưng trần phơi nắng phơi sương/ có manh áo cộc tre nhường cho con (Tre Việt Nam)

Tự ngàn xưa người dân Tri Tôn, người dân Nam Bộ đã biết khai thác nó như một loại cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhờ suôn thẳng nên ngoài công dụng làm nhà cửa, sào chống xuồng ghe, dân gian còn làm bàn ghế, giường chõng…

Cây tầm vông còn là vũ khí vô cùng lợi hại của nghĩa quân nông dân Nam Bộ trong các cuộc chống kẻ thù ngoại xâm và nội xâm bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống yên bình. Hình ảnh người nông dânngười nghĩa sĩ Cần Giuộc đã theo Trương Định chiến đấu chống thực dân Pháp, ngay từ khi chúng mới đặt chân lên đất nước. Hình ảnh người nghĩa sĩ Ngoài cật có một manh áo vải/ Nào đợi mang bao tấu bầu ngòi / Trong tay cầm một ngọn tầm vông/ Chi nài sắm dao tu nón gõ” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) mãi mãi là hình ảnh đẹp, hào hùng về người nông dân Nam Bộ trong buổi đầu chống thực dân Pháp.

Rồi những ngày mùa Thu lịch sử năm 1945, với khi thế ngút trời người nông dân Nam Bộ trong đó có người nông dân Tri Tôn nghe theo tiếng gọi của non sông lại “cùng nhau xông pha lên đàng”, giáo với nóp mang trên vai, nhưng thân trai nào bớt oai hùngđã cùng cả dân tộc chín năm kháng chiến thánh thần/ gậy tầm vông diệt tan quân bạo tàn (Tố Hữu) để nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng.

Và đây nữa, hai mốt năm chống Mỹ và tay sai,người dân Tri Tôn quê tôi lại thề cứu lấy nước nhà,thề hy sinh đến cùng, tầm vông lại một lần nữa sát cánh cùng con người Tri Tôn đánh giặc. Những rừng tầm vông của Lương Phi, Ba Chúc, Lê Trì và cả núi Dài lại che bộ đội, vây quân thù. Những bãi chông bằng tầm vông vạt nhọn để bố trí ngăn cản các ngả đường tiến quân của giặc. Trong những năm chống Mỹ, núi Dài – Ô Tà Sóc là căn cứ cách mạng của Tỉnh, tầm vông núi Dài đã gắn bó mật thiết với cán bộ chiến sĩ cách mạng. Tầm vông làm vạt giường ngủ, làm bàn ghế họp hội, làm lán ở, làm hầm cứu thương, Măng tầm vông, nguồn dự trữ thực phẩm, nó được chế biến làm thức ăn tươi cũng như phơi khô để dành cho cán bộ và bộ đội. Tầm vông núi Dài đã đóng góp xứng đáng trong công cuộc kháng chiến giải phóng quê hương đất nước và đã đi vào những trang thơ ca.

Hôm nay ai có dịp về Ba Chúc, Lương Phi, dọc theo đường tỉnh 955B và nhất là dọc theo con đường vào khu Di tích Văn hóa Lịch sử cách mạng Ô Tà Sóc đều nhận thấy ngút mắt là màu xanh của tầm vông. Tầm vông nối tiếp tầm vông thân óng ngời thẳng tắp chạy tít tới chân núi. Dân phượt các nơi tới đây đều trầm trồ khen ngợi, những rẫy tầm vông bạt ngàn hai bên đường vào căn cứ Ô Tà Sóc, những bãi uốn tầm vông ven lộ 55B là những điểm check-in không thể thiếu của những ai một lần về Lương Phi, Ba Chúc.Tầm vông núi Dài, một nguồn tài nguyên đã bao đời nuôi sống con người và đang góp phần xóa nghèo, làm giàu cho bà con nơi đây. Đẹp lắm, mênh mang lắm, yêu lắm và thương lắm tầm vông quê tôi./.

Cao Thế Phiệt