Người lính xứng danh anh bộ đội cụ Hồ

Cuộc trò chuyện của chúng tôi bắt đầu trong một sáng mây vần vũ đầy trời, mưa lích rích nhỏ xuống mái hiên của chiếc chòi kết bằng lá dừa nước, chú vừa cất sau ngày về hưu. Được dịp, gió rít từng cơn rân rân da thịt. Biết ý, chú với bình trà. Nước chạm đáy ly thủy tinh phát ra tiếng tóc tách. Đối diện tôi – người đàn ông có đôi mày rậm, mắt vẫn chăm theo hướng tiếng nước chảy ra chính là thiếu tướng Lê Hoàng Phúc. Người từng gắn bó trường chinh trong cuộc chiến biên giới Tây Nam. Tháng trước, chú nhận quyết định hưu. Vừa bàn giao xong công việc ở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang, chú nhận được lời mời về nguồn cùng cô L.T.Q – một người chị, cũng là nữ y tá chiến trường (cả hai cô chú tôi đều may mắn được thân quen sau vài lần được cử đi lấy tin vào dịp cải táng hài cốt liệt sĩ 27/7 hằng năm của tỉnh). Không giấu được sự tò mò chuyến đi của cô chú, tôi nài chú kể về cuộc hành trình vừa trải qua. Dừng vài giây, vị tướng một thời xông pha trận mạc khẽ nâng ly trà lên nhấp từng ngụm nhỏ, hương trà dìu dịu quyện trong làn khói bay phảng phất. Vị tướng mím môi, mắt hướng theo sợi khói tan dần vào khoảng không ngày gió…

Từ đồng sông…

Chị gọi điện: Bông điên điển nở vàng đồng rồi, em đi với chị được chưa?

Tôi đã bỏ bao mùa điển điển là bấy nhiêu lần thất hẹn cùng chị. Sự lần lựa không thể đổ thừa cho những lý do, lòng tôi hăm hở.  Lần này, tôi sẽ đi cùng chị…

Hôm ấy, bình minh sớm hơn mọi ngày, mây vàng trải lãng đãng, nối đuôi nhau in xuống mặt sông mùa lũ mênh mang, sóng bập bềnh hệt như những chiếc xuồng trong buổi hành quân ngày nào. Giữa dòng, trên chiếc xuồng ba lá, cánh tay chị nhỏ nhắn lướt theo mái dầm, đầu đội nón lá che hết nửa khuôn mặt, trên vòng cổ là chiếc khăn rằn đen trắng, một đầu khăn tung xõa xuống bờ vai. Mấy mươi năm đón bình minh là những tia sáng len lỏi trong căn phòng nhìn ra cũng chỉ thấy những ô cửa kiếng và tường vôi, tôi đã bao giờ gặp lại mình ở tháng ngày xưa cũ? Giọng chị í ới vang động khúc sông. Cho đến khi chị ghé xuồng sát bờ rước, tôi vẫn đứng bất động, không thể vẫy tay càng không thể đáp lại một lời.

-Phúc! Lên xuồng nhanh đi em!

Chị ghé phần bánh lái cặp sát bờ. Tôi vịn vào bụi lau đang lòa xòa xuống nước để nhảy lên xuồng. Tôi còn đang lóng ngóng, chị thẩy cho mái chèo nói bơi tiếp chị. Chị sợ tôi không thể lèo lái chiếc xuồng nên gợi ý đổi chỗ, tôi sẽ đằng mũi xuồng còn chị sẽ ra phần lái. Tôi không chịu, vội thanh minh là chị không nhớ sao, ngày xưa em còn chỉ huy cả đại đội đánh trên xuồng. Biết bao đồng chí hành quân vào Nam chiến đấu chẳng biết bơi, biết lội, em vẫn có thể giúp các đồng chí ấy tác chiến, đánh địch tan tác…

Dường như đó là trận ở Mương Tám Xóm, xã Phước Hưng, biên giới huyện An Phú. Tối đó, mình đánh vào đội hình phòng ngự, đánh thọc sâu vào sở chỉ huy của quân Pôn Pốt. Có chiếc xuồng do ba đồng chí là người miền Bắc lèo lái đều không biết bơi. Sau một luồng đạn liên hồi, người ở giữa xuồng đã hi sinh, hai đồng chí còn lại đều bị thương nặng. Chiếc xuồng xoay mòng, chú vội lặn ra mép ván đưa xác người đồng đội lên một chiếc xuồng khác. Hai người còn lại đã kịp vịn vào thành xuồng, tấp vô dề rau muống đồng cạnh chòm điên điển, trước khi chiếc xuồng kịp đứt lìa ra làm đôi vì dính 23 đầu đạn nhọn và quả cối 60 của địch rớt ngay giữa xuồng. Như chìm trong miên man hồi ức cùng tôi, chị ấy cất lời:

-Lần ấy, chị nhớ em bị bắn bể mông mà. Chở về trạm quân y tiền phương, máu me loang lổ khắp người, chị vừa băng bó vết thương cho em vừa nghe em căn dặn mọi người chôn cất Việt. Hài cốt Việt sau này đã được đưa về quê nhà chưa em?

Nhắc tới Việt, tôi buông tiếng thở dài đánh thượt theo nhịp chèo rẽ nước. Việt quê ở Thanh Hóa vào An Giang từ những ngày đầu của lưỡi lê Pôn Pốt. Chính tôi dạy cho cậu ấy bơi. Việt kể, quê cậu ở một huyện núi cao, không có sông nước mênh mông thế này, nhưng trên đồi, nước suối rất ngọt và trong, nấu nước chè tươi thanh mát, hương thơm thoang thoảng. Việt luôn mang theo hình ảnh quê nhà để tự hào khoe với chúng tôi như một cách để vợi đi nỗi nhớ và với một niềm tin, niềm hi vọng sẽ đón chúng tôi ra thăm quê sau ngày thanh bình.

Tôi và đồng đội đã nhiều lần đi tìm Việt trong khấp khởi hân hoan để rồi thất vọng. Chúng tôi đã xới tung cả khoảng ruộng này mà không sao tìm thấy người anh em của mình. Ngày tôi ra Thanh Hóa để thăm gia đình Việt, tôi mang theo nắm đất của đồng ruộng phương Nam đưa về quê nhà cậu ấy, lòng tin chắc một điều Việt đã hóa vào phù sa mỡ màu quê tôi.

Được sự cho phép từ trước của bộ đội biên phòng, chúng tôi bơi xuồng qua cánh rừng bên kia biên giới. Để đến được cánh rừng già vùng Khett Takev, chúng tôi phải vượt qua một đoạn đường ruộng. Năm trước, có dịp đi khảo sát vùng biên, tôi cũng đã đặt chân lên đoạn đường này. Lúc đó vào mùa khô, cánh đồng ngút ngát một màu xanh thanh xuân, cây lúa uốn lượn theo đường biên mềm mại như mái tóc của nữ thần bầu trời mơ màng xõa xuống dải biên cương Tây Nam Tổ quốc. Cháu chưa từng trải qua cuộc chiến đau thương ngày ấy, khó có thể hình dung và tin tưởng rằng, nơi đây từng có những tháng ngày máu nhuộm đỏ những bông lúa vàng, đạn bom gầm rú bật tung những gốc da. Lại nói về những gốc da, lần nào có dịp đi công tác, tuần tra dọc biên giới Long Bình, tôi cũng đến viếng “cụ” da.  Người dân An Phú gọi là “giồng da” – nơi đã đi vào lịch sử chiến đấu hào hùng của quân và dân ta suốt chiều dài chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Thân cụ bây giờ mười người ôm không xuể. Phần thân còn hằn nhiều vết sẹo của đạn bom. Họ kể, đêm đêm họ hay thấy cả đám thanh niên chuyện trò, cười nói rôm rả. Tôi chưa kể chuyện này với ai bao giờ. Cũng sợ, họ không tin. Chỉ những linh hồn đồng đội xưa kia, tôi tin họ đang có những phút giây thanh thản nhất, tự tại nhất để nhìn về chúng ta bằng ánh mắt mãi mãi tuổi đôi mươi trong trẻo.

Nơi đây, chắc chắn đêm đêm cũng có những gốc da vô hình như thế. Nghĩ vậy, tôi khẽ cúi đầu tưởng đến những đồng đội còn nằm dưới lòng đất sâu lạnh. Gió rít ngang qua tai, tôi khẽ rùng mình lơ đãng ngó nghiêng. Cảm giác này, tôi hay bắt gặp khi một mình đến viếng các nghĩa trang.

Đến núi rừng …

Chúng tôi buộc xuồng vào gốc cây bằng lăng. Tôi nhảy lên bờ trước, đưa tay ra đón chị. Chị ấy không lên vội mà ngồi thẫn thờ ngắm hàng lau sậy ngay vạt nước bìa rừng. Tôi không nỡ gọi. Cháu biết không, ngày ấy, đã có bao chiếc xuồng cập bến nơi đây, bao lần bông cỏ lau trắng muốt vẫy tay đưa tiễn là bấy nhiêu lần vĩnh viễn chia xa. Những nữ y tá chiến trường như chị ấy lại càng không thể nào đếm xuể bao lần vẫy tay tiễn biệt như thế. Câu chuyện vị tướng đang kể khiến tôi nhớ lại, trong một bài phỏng vấn một nữ cựu binh nọ, cô ấy từng chia sẻ với tôi. Cô bảo, cô rất thích bài hát “Chờ người” của nhạc sĩ Lam Phương và chẳng hiểu sao khi nhìn những con đò nhỏ buộc bên những hàng cây lặng lẽ, cô đau xót vô ngần.

-Cháu nói, làm tôi chợt nhớ đến vợ mình. Suốt những năm tôi tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam rồi mười năm làm nghĩa vụ quốc tế, bà ấy cũng đã mỏi mòn chờ tôi. Chúng tôi cưới nhau khi trận chiến biên giới Tây Nam vừa nổ ra. Tôi nhớ những lần vượt đường rừng phải mất mấy ngày đêm mới về đến nhà thăm vợ. Lần nào bà ấy cũng khóc. Nhưng biết tính tôi kiên định, vợ tôi chỉ xin tôi ở lại thêm vài hôm. Đối với người lính, quân lệnh như sơn, tôi nghĩ ở thêm vài ngày, rồi vài ngày nữa cũng phải lên đường, mà ở càng nhiều, quyến luyến càng nhiều, khi dứt áo ra đi càng thêm không nỡ. Lần nào ra khỏi cổng nhà cũng chạy như ma đuổi, không dám ngoái lại phía sau, chỉ sợ nhìn cảnh tượng vợ con khóc lóc chạy theo mà mềm lòng.

– Khi ấy chú nghĩ gì mà quyết chí như vậy ạ?

Tôi nghĩ đến Bác, Người đã bỏ lại gia đình quê hương mà bôn ba ra đi tìm đường cứu nước bao nhiêu năm trời. Tôi là một người lính Cụ Hồ, phải sống và chiến đấu sao cho xứng đáng. Để tôi kể tiếp cho cháu nghe. Vào năm 1979 khốc liệt của cuộc chiến diệt chủng Pôn Pốt. Sau những trận đánh lớn, đơn vị tôi đóng quân ở Ta Keo để vừa chiến đấu vừa bảo vệ, giúp đỡ người dân Campuchia ổn định lại cuộc sống. Buổi trưa hôm ấy, khi tôi vừa đi tuần tra về, có hai người đàn ông đến đơn vị, trông ai cũng bực dọc, cơn nóng giận khiến màu da đen bóng hừng hực như có lửa. Họ đứng trước mặt tôi, trình bày sự việc, người này nói chưa dứt câu, người kia đã chen vô cướp lời. Thời chống Mỹ, ba tôi là sĩ quan quân giải phóng, sau bị bắt, để đảm bảo sự an toàn, gia đình tôi đã qua bờ bên kia của nước bạn để sinh sống. Tôi sinh ra ở Campuchia đến lên năm, lên sáu mới trở về quê nhà nên cũng biết bập bẹ vài từ. Đại khái là một ông nuôi heo và một ông trồng lúa, heo của ông này xuống ăn đám lúa ruộng ông kia, nên ông mất lúa đòi bồi thường. Ngược lại, ông mất lúa lại đánh chết con heo nên ông chủ heo khiếu nại. Tôi gọi hai ông lại rồi nói: Bây giờ, các ông có thương bộ đội Việt Nam không? Hai người, người mất lúa, người mất heo coi như huề, còn con heo cho bộ đội làm thịt bồi dưỡng, hai ông tính sao? Tôi vừa dứt lời, cả hai gật đầu đồng ý. Bữa đó, cả đơn vị và người trong phum ai có gì mang ra nấy, tổ chức liên hoan. Trong phum, họ thường gọi tôi là ông lớn với vẻ rất kính. Ngày hôm sau, có một người đàn ông đến nói xin thưa chút chuyện. Tôi rửa tay đi vào, người đàn ông ngoài bốn mươi là trưởng phum này tay xách cặp vịt với đôi rượu, đưa mắt ra hiệu cho đứa con gái đang đứng nép ngoài hàng thốt nốt đi vào. Wung Zol bảo: Hôm nay, tôi mang vịt, rượu đến gặp ông lớn, xin cho con gái tôi được gả cho ông lớn. Chị Q. nghe tôi kể đến đây thì phá lên cười, trong 9 điều qui định với quân tình nguyện Việt Nam thì có một điều qui định không được quan hệ yêu đương, vợ chồng với người bản địa. Hơn nữa tôi lại là người có vợ. Không hiểu sao, lúc đó, tôi nhớ lại khoảnh khắc ngày cưới, cha vợ cầm tay trao con gái cho tôi. Ngay lập tức tôi trở nên dứt khoát, giải thích rằng mình đã có vợ, rằng quân lệnh không cho phép, người cha vẫn vớt vát niềm hi vọng gửi trao: Có vợ rồi, có vợ nữa có sao đâu, tôi trưởng phum còn ba vợ mà. Tôi nhận thấy sự chân thành trong lời nói mộc mạc của ông. Chả biết phải từ chối sao cho khéo, trong tình thế ấy, tôi buột miệng sẽ mần mai và gả con gái Wung Zol cho một sĩ quan Campuchia.

-Chị à, lần này trở về em mong được gặp lại Wung Zol. Tôi đã thổ lộ niềm hi vọng của mình với người bạn đồng hành sau câu chuyện hụt vợ. Tôi với cành bứa, chọn hai quả to chín mọng. Hai chị em vừa ăn vừa nhìn nhau bật cười, nước từ quả ứa ra màu vàng dính bệt vào răng. Một thời, chúng tôi sau những giờ hành quân gian khổ, đói lòng ăn quả bứa rừng, vẫn vô tư há hốc miệng cười sặc sụa khoe hàm răng vàng như thời tiền sử. Theo tiếng chim lích chích, chúng tôi lang thang trong rừng. Mùa này mưa nhiều, rừng có nhiều hoa lá, dây leo chằng chịt. Tôi nhìn theo hướng tay chị chỉ, thấy cả một rừng buông. Hai chị em chỉ dám đứng xa xa. Lá buông có thể dùng lợp nhà, thân cây lấy gỗ, củi nhưng buông không phải là lá chắn an toàn cho người lính. Lần đó, tôi dẫn cả tiểu đoàn đi hành quân, bị tấn công bất ngờ, nhìn thấy cả rừng buông cao quá đầu người, liền ra lệnh cho đồng đội vào ẩn nấp. Một lúc sau, ai nấy đều khó chịu như muốn nghẹt thở, không thể chịu được, tôi liền ra lệnh di chuyển sang nơi khác. Sau này có dịp hỏi người bản địa mới biết, cây ấy ban ngày cũng hít khí oxy.

Lần theo những tảng đá nằm áng ngự men theo bờ suối, chúng tôi đặt chân đến những tháp núi cổ. Những tòa tháp mấy trăm năm vẫn điềm nhiên trải qua dâu bể. Tôi dắt chị đi vô trong lòng một ngôi tháp. Nơi đây, xưa kia đơn vị tôi đã bao phen dựa vào tấm lưng khổng lồ ấy mà nương náu khi đã bị đánh trơ trụi căn cứ đóng quân. Máu chảy trên thân tháp. Vệt máu giờ hóa màu rong rêu xanh ngăn ngắt, bao lấy chỗ những luồng đạn dội vào còn sâu hoắm tích thương. Tôi kéo chị leo tận lên ngọn đồi. Chỗ ấy, mới ngày nào chúng tôi sau tiếng súng chan chát đã đứng ngồi để dõi về quê hương. Từ đỉnh đồi ngó sang nước Việt, đồng ruộng, sông núi thanh bình, yên ả, những cánh cò trắng rập rờn, sải rộng cánh tung bay. Giữa linh thiêng núi rừng, tôi mơ hồ như các anh cũng đang cùng chúng tôi đưa mắt nhìn dải biên cương Tổ quốc. Chị Q. đốt vài nén hương. Khói nhang nghi ngút tỏa vào nền trời. Tôi ngẩng mặt, nhìn những cụm mây đậm sắc lơ lửng đội trên ngọn tháp, khắc khoải xanh, xanh đến rợn người. Mây đan vào nhau thành đám, cuồn cuộn. Chị khấn: Nếu các anh còn ở lại thì các anh hãy ngồi trên ngọn đồi cao gió mát để nhìn xuống quê hương mình thay đổi từng ngày.

Chúng tôi nán lại vài giây rồi khẽ khàng xuống núi, chân đưa theo kí ức. Suối nước an nhiên suôn suốt chảy, tưởng như ngàn năm vẫn đợi chờ. Vài con cá lội ngược dòng, nhảy lên trên mặt nước. Tôi vớt chút mát trong vỗ vào mặt rồi tiếp tục đuổi theo chị. Nắng đã về chiều, rừng trở nên hoang lạnh. Bóng thốt nốt như những chiếc lọng cán dài đã tỏa xuống dưới chân. Dợm vài bước, tôi kéo chị đi, đi mãi, đi mãi… đã bao năm, tôi không còn cảm giác hồi hộp, run rẩy. Trống ngực đánh thình thịch khó thở.

-Wung Zol! Keo Mik! Âu ơi! Boong ơi! Cunl mô nik! (Wung Zol! Keo Mik! Cha ơi! Anh ơi! Con về đây!)

Tiếng gọi tôi vọng vào vách núi rồi dội lại giữa thinh không. Căn nhà sàn nằm chênh vênh lưng núi hoang lạnh khiến tôi sụp xuống. Tôi không thể lê bước lên cầu thang. Chỗ tôi ngồi đây, ngày nào Wung Zol đã bắt con gà mái cắt tiết để tôi tẩm bổ trong những ngày sốt rét đến xanh da, vàng mắt. Chỗ cái chum nước đã thủng một lỗ toang hoác vì trúng mảnh bom, vợ Keo Mik đã ngồi giặt giúp tôi bộ quân phục cứng quèo vì máu, mồ hôi và bụi đất đeo bám. Và cả Sô Kha nữa, thằng bé mới lên ba cứ lon ton chạy theo ông nội rót nước, bưng nước, nằng nặc đòi tôi cho sờ vào khẩu súng: Cunl bank phlon! (Cho cháu bắn súng với!)

Gió từ phía sau núi thổi tốc ra khung cửa. Vài con nhện chếnh choáng khỏi bàn tơ, hoảng loạn bám vào cây cột, cây kèo mà từ chỗ ấy, nơi hoa văn chạm trổ đang rụng ra nào mối mọt, nào bụi gỗ. Chị Q. khẽ tay quấn những mạng nhện theo vòng tròn để mở đường leo lên sàn nhà. Những mạng nhện mỏng tang vướng vít vào tay, vào mặt, giăng mắc vào lòng tôi, chúng có gai đâu mà tôi thấy xa xót, xốn xang. Cháu đã bao giờ bao năm đi xa, biền biệt những mối liên hệ, nay tìm đường trở về ngôi nhà mình từng có những tháng ngày được sống trong sự yêu thương, che chở ấm áp của cha mẹ, anh em sẽ phần nào hiểu được tâm trạng của tôi lúc ấy. Căn nhà tàn lụi, hoang lạnh, không một bóng người. Những nụ cười, ánh mắt của người xưa hiển hiện đau đáu. Ngày ra đi, Wung Zol trong chiếc sà rông xếp bằng ngồi bốc mắm bồ hóc chấm với đọt móng bò đưa vào miệng tôi. Cái vị tanh nồng, thum thủm, gắt gỏng và mặn đắng ấy bao năm nay tôi chưa bao giờ quên được. Cả món canh sim lo mà lâu lâu có dịp đi công tác vùng biên giới, tôi vẫn được đãi cơm nhưng không sao tìm lại được vị ngọt đằm, thanh thao trong chất nước.

Chúng tôi quay lại khi những váng mây trời dần chuyển sang ráng đỏ. Hoàng hồn xứ núi thường đến sớm hơn. Tiếng chim gọi bầy inh ỏi hòa trong âm thanh của muông thú, xôn xao cả khu rừng. Từ lúc rời khỏi căn nhà gỗ trên núi, chúng tôi chẳng nói với nhau lời nào. Sự im lặng khiến không gian như thước phim quay xả lại của những tháng năm xưa cũ. Khi chúng tôi chuẩn bị bước chân xuống xuồng, bỗng nghe đâu đó tiếng gọi:

  • Lục thum! Khơnhum nik! (Ông lớn! Tôi nè!)

Kể đến đây, vị tướng đảo mắt liên tục, hàng mi lưa thưa cũng đủ làm tròng mắt nổi lên những vệt đỏ au. Tôi khẽ liếc nhìn rồi quay ra nhìn nước nhỏ tong tong từ mái lá. Tôi chưa nếm trải những thời khắc kinh hoàng và cả những tích tắc thiêng liêng của thời chiến, nhưng đọc trong đôi mắt chú, theo dõi câu chuyện chú kể, đâu đó trong tôi cũng rưng rức khi tưởng đến cái khoảnh khắc tương phùng này. Tôi không có vẻ chờ đợi chú tiếp tục mà cũng như chú, tôi thật sự nghẹn ngào. Phải mất một lúc lâu, vị tướng nhíu cặp mày rậm, kể tiếp.

Đêm ấy, Wung Zol dắt chúng tôi về nhà. Những cụ già trong phum gặp chúng tôi, nắm chặt tay run run đôi môi: Cái ơn của bộ đội Việt Nam đối với chúng tôi còn lớn hơn ơn sinh thành, bởi các ông đã tái sinh cả một dân tộc. Gặp lại ông lớn, chúng tôi vui lắm, mừng lắm.

Keo Mik đi bắt cóc về cùng vợ làm thịt, băm nhuyễn nấu cháo đãi chúng tôi. Bên ánh lửa đêm và nồi cháo nghi ngút, chúng tôi ngồi ôn lại chuyện xưa, hỏi thăm chuyện nay. Nàng Chey Lim (con gái Wung Zol – vợ hụt của tôi) nay cũng đã ngót năm mươi. Ấy vậy, nhắc lại chuyện xưa, mặt Chey Lim vẫn đỏ bừng chẳng biết có phải do ánh lửa? Ngày hôm sau chúng tôi về, Keo Mik còn đem tặng chúng tôi cặp cóc chạm trổ bằng gỗ trầm thơm quý. Tôi không nhận thì thấy thất lễ nên chần chừ mãi, Wung Zol nắm tay tôi bảo: Đó là tình cảm làm kỉ niệm, nhờ có bộ đội Việt Nam, chúng tôi mới còn sống sót mà học được nghề mộc này. Hãy mang về nhà để cầu sự may mắn. Tôi chắp tay, cúi đầu cảm ơn rồi chào tạm biệt.

***

Người được nghe câu chuyện này cũng cảm thấy mình thật may mắn. Thước phim quá bồi hồi vẫn đang tua lại trong ánh mắt của cả người nghe và người kể. Những người lính như thiếu tướng Lê Hoàng Phúc, cô L.T.Q là những tấm gương lớn về lòng yêu nước, sự dũng cảm và sự dấn thân, hi sinh thanh xuân và tình cảm riêng tư vì tình yêu lớn lao, thiêng liêng với Tổ quốc. Họ – những người lính một lòng đi theo chân Bác, theo tấm gương cao cả của Người quyết lòng bảo vệ Tổ quốc. Và cao đẹp hơn nữa, họ còn góp phần làm lan tỏa hình ảnh sáng ngời của người lính Việt Nam trong lòng bạn bè quốc tế, làm bền chặt hơn tinh thần đoàn kết của ba nước Đông Dương. Đó cũng là lý tưởng cao vợi luôn ấp ủ trong lòng vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trước mặt tôi, vị tướng đã từng một thời xông pha trận mạc để hai bàn tay xếp chồng lên nhau đặt trên mặt bàn. Ngỡ là một cuộc trở về sẽ không có gì ngoài những kỉ niệm. Chú lại với tay, tóc tách tiếng nước trà va vào đáy ly thủy tinh. Lần này, không đợi chú mời, chúng tôi cùng nâng ly nước lên nhấp từng ngụm nhỏ. Nước trà vẫn bốc khói nóng dù trời đã hửng nắng trưa. Tôi chợt nhận ra, đôi lúc chúng ta uống trà không phải vì khát nước, càng không phải vì thưởng vị, thèm mùi. Nhấp trà trong thinh lặng là một cách riêng để lưu giấu những điều rất riêng và rất thiêng. Có chăng, trong khoảnh khắc vị tướng nhấp trà, còn có sông núi cũng đang thì thầm về những tháng ngày đã xa…

Hoàng Thị Trúc Ly