Các chữ số theo quan niệm của dân gian và phong thủy

Các con số đếm có từ thời xa xưa, khi con người còn sống trong xã hội nguyên thủy. Ghi nhận cổ nhất về các con số trong thư tịch là từ bức Hà Đồ. Theo truyền thuyết đời vua Phục Hi (hơn 3000 năm trước Công Nguyên), có con Long Mã (đầu rồng mình ngựa) xuất hiện nơi sông Hoàng Hà, trên lưng có những điểm đen trắng cấu thành một bức đồ hình nên gọi là Hà Đồ (Bức đồ họa trên sông Hoàng Hà). Hà Đồ nguyên thuỷ tổng cộng có 55 điểm đen trắng, trong đó các số trong nhóm điểm trắng là 1, 3, 5, 7, 9; các nhóm có điểm đen tương ứng là 2, 4, 6, 8, 10. Như vậy về cơ bản có thể thấy Hà Đồ đã phân định ra âm dương của các số (Số lẻ là dương, số chẵn là âm). Đến đời vua Đại Vũ  (2205-2197 trước Công Nguyên), khi trị thủy, trên sông Lạc xuất hiện một con rùa lớn, trên lưng rùa mang hoa văn cấu thành một bức đồ, bức đồ gọi là “Lạc Thư”. Ở giữa lưng rùa có 5 điểm tròn màu vàng , phía gần cổ có 9 điểm màu đỏ tía, gần đuôi có 1 điểm màu trắng, bên trái có 3 điểm màu xanh biếc, bên phải có 7 điểm màu đỏ, ở trước phía trái có 4 điểm màu xanh lục, phía sau bên trái có 8 điểm màu trắng, ở trước phía phải có 2 điểm màu đen, ở phía sau bên phải có 6 điểm màu trắng. Và Đại Vũ dùng các số và màu trên lưng con rùa đó để biểu thị và đặt tên cho 9 ngôi sao (Cửu Tinh – 9 tinh tú) trong vũ trụ đó là: Số (1) là sao Nhất Bạch, số (2) là sao Nhị Hắc, số (3) là sao Tam Bích, số (4) là sao Tứ Lục, số (5) là sao Ngũ Hoàng, số (6) là sao Lục Bạch, số (7) là sao Thất Xích, số (8) là sao Bát Bạch, số (9) là sao Cửu Tử.

Các thứ tự của các số trên nếu đưa vào hình vuông có 9 ô

Đây là một hình vuông kỳ điệu. Nếu cộng theo chiều ngang hay chiều dọc hoặc đường chéo thì có tổng của 3 con số đều bằng 15.  Các con số trên đường thẳng đi qua tâm là con số 5  thì có tổng là 10 (còn gọi là Hợp thập). Hai con số liền kề có khoảng cách với nhau là 5 đó là: 8,3. 4,9. 2,7 và 1,6; đây là các cặp số hợp thành ngũ hành Mộc, Hỏa, Kim, Thủy. Người Trung Hoa gọi hình vuông đó là Phương Trận hay Ma Phương.

Đối với số 4 thường gọi là Tứ,  một số người Việt không thích con số 4 này vì xem đó là con  số không tốt vì hai lý do: Một là bởi cách phát âm chữ Tứ giống chữ “tử” có nghĩa là chết. Hai là lấy cơ sở từ quan niệm có bốn giai đoạn trong cuộc đời là “Sinh, Lão, Bệnh, Tử” thì số 4 cũng là sự kết thúc. Nhưng với một số người biết về Phong thủy thì số  4 tượng trưng cho sao Tứ Lục là một ngôi sao ở hướng Đông Nam, nó còn có tên khác là Văn Khúc tinh là một cát tinh chủ về văn chương. Trong Bát quái là cung Tốn. Trong khoa Phong Thủy nếu thế đất mà ở phương Tốn (Đông Nam) có núi nhọn, tương trưng cho cây bút là số 1 đó cách Nhất Tứ đồng cung đây là đất phát khoa bảng. Cụ Tả Ao được xem là “Thánh Địa Lý Phong Thủy” của Việt Nam có câu viết như sau: Muốn cho con cháu Trạng Nguyên/ Phương Tốn có bút, có nghiên phương Đoài . Giải thích: Muốn cho con cháu học hành thành đạt, thì tìm cuộc đất mà phương Đông Nam có núi nhọn hình cây bút nếu ở cung Đoài (hướng Tây) có thêm sông nước hoặc có ao hồ hình cái nghiên (Dụng cụ dùng để mài mưc ngày xưa) thì con cháu sẽ học giỏi hay đậu thủ khoa các kỳ thi hoặc có thể đậu đến Trạng Nguyên tức đỗ đầu ở khóa thi có qui mô toàn quốc.

Liên quan đến vấn đề âm tiết của các con số,  quan điểm của một bộ phân người Việt và người Hoa cũng có khác biệt như: Người Việt thích số 9 và xem đây là con số của hạnh phúc, an lành, thuận lợi. Với âm tiết đọc là cửu tương đồng với trường cửu là bền vững, lâu dài. Trong khi đó ở một  bộ phận người Hoa không thích số 9 với lý do số 9 thuộc sao Cửu Tử một sao chỉ có 50{fb72bbfdc4a578d027b556b83290df3d4a0d2dba3541c6c431f41d65a7fb72a4} tốt mà thôi, họ thích số 8 hơn vì số 8 đọc là Bát nó đồng âm với chữ phát có nghĩa là thăng tiến nên thu được tài lộc, danh vọng. Thêm nữa trong Phong Thủy Cửu tinh con số 8 tương ứng với sao Bát Bạch một phúc tinh mang lại sự may mắn, bình yên.

Dân gian có câu “Ba chìm, bảy nổi” nên một số người không thích số 3 vì ba thì chìm mà thích số 7 vì bảy là nổi. Bên cạnh đó trong văn học Việt Nam cũng có câu liên quan đến số 3 là: Dù ai nói ngã nói nghiêng/ Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân. Như vậy số 3 ở đây lại được xem là con số biểu tương cho sự vững chắc. Nhưng theo Phong Thủy cả số 3 và 7 đều là những con số không tốt, số 3 là sao Tam Bích biểu tương cho sự tranh chấp, số 7 là sao Thất Xích là “Tặc Tinh” là một sao xấu. Ba và bảy nếu đứng liền nhau nếu công lại thành mười tức là “Hợp thập” Hợp thập thường được xem là hợp tốt, nhưng ở trường hợp này là tổ hợp 3-7 không tốt. Khi Tam (3) Thất (7) gặp nhau thì phải cẩn thận giữ tiền vì dễ bị mất trộm. Tổ hợp hợp thập tốt nhất là chín và một vì trong trợ, phá cách có câu “Nhất quí đè cửu tiện” tức nếu có được một điều quí thì có thể lấn áp cả chín điều xấu. Vì vậy trong các hồ nuôi cá theo phong thủy người ta thường thả chín con cá đen và một con cá đỏ để mong ước hóa giải những việc xấu nếu nó xảy ra.

Với con số 2 được nhiều người xem là con số hạnh phúc vì tượng trưng cho là một cặp, một đôi phù hợp cho sự kiện như cưới hỏi (Song Hỉ). Số 2 còn tượng trưng cho sự cân bằng âm dương, nhưng trong Phong Thủy số 2 là sao Nhị Hắc không phải là một cát tinh mà biểu hiện cho sự kém may mắn, khẩu thiệt, bệnh tật.

Với con số 5 trong dân gian không xem là tốt hay xấu, nhưng trong Phong Thủy số 5 tượng trưng cho sao Ngũ Hoàng một đại hung tinh gây tai họa.

Phần trên là khác biệt nhưng cũng có điểm tương đồng, giữa quan điểm trong dân gian  và Phong Thủy đó là con số 1 và số 6. Số 1 từ Hán Việt là Nhất là con số đầu tiên của các số xem như là số dẫn đầu, khi đã là dẫn đầu thì không ai hơn được. Trong Phong Thủy số 1 là Khôi tinh sao tốt chủ về may mắn và có thành tựu trong văn chương. Số 6 và có từ Hán Việt là Lục theo âm tiết của cách đọc gần giống với Lộc có nghĩa là tiền bạc, của cải. Nếu số 6 đi liền với số 8 thành Lục Bát (68) đọc “trại” đi thành lộc phát tức là con số phát tài. Đối với người nghiên cứu về phong thủy rất thích ba con số 1, 6, 8 được  xem đó là 3 viên ngọc “Tam Bích” khi nó xuất hiện và đi chung với nhau sẽ đem lại nhiều điều may mắn về danh vọng, tiền tài và sức khỏe cho gia chủ hay con cháu của người an táng trong ngôi mộ.

Về các con số trên bảng số xe có người thích tổng các con số trong dãy số này cộng lại có số lẽ phía sau là 9, nhưng thích nhất là có 4 con số có cùng một chữ số như: 1111, 2222,…9999  và được gọi đó là số Tứ quí và tin đó là số đẹp, may mắn. Tứ quí và cách cộng các con số ở đây có xuất phát từ cách chơi bài Tây 52 lá. (13 loại lá bài cùng với 4 dạng Cơ, Rô, Chuồng, Bích: 13 x  4 = 52). Có người lại cho rằng dãy số tiến tức là các con số tính từ trong ra có cấu trúc từ số nhỏ đến số lớn thí dụ như là dãy số 14689 là tốt là biều hiện của sự thăng tiến. Nếu thứ tự nghịch lại như 98641 là số thoái có nghĩa là trì trệ, không may mắn.

Nói đến con số thì không thể không nhắc đến số điện thoại nhất là điện thoai di động, ở Việt Nam rất nhiều người có số điện thoại di động riêng (self phone), cá biệt có người có đến hai, ba số. Trong các sách về Dịch học được bày bán ở nhà sách có hai quyển là Mai Hoa Dịch Số, Chu Dịch và Dự Đoán trong hai sách đó có đề cập phương thức lập thành các quẻ dịch từ các con số. Vì vậy cũng có nhiều người đem áp dụng vào số di động dể đoán cát, hung, thành, bại. Đây là phần mới phát triển ở những năm gần đây nên không có tiền lệ (tức trong cổ thư không đề cập đến phần này). Họ đưa ra nhiều cách tính, lập quẻ khác nhau: Có cách mơ hồ, phức tạp và có cách đọc thì thấy không “logic”. Tuy nhiên trong đó có một cách khá thuyết phục người viết bài này như sau: Trong 10 con số của điện thoại di động chỉ sử dụng 6 con số phía sau, sáu số này tương ứng với sáu hào trong quẻ dịch. Theo nguyên lý âm dương số lẽ là dương, số chẵn là âm. Ba số ở cuối của dãy số vì ở vị trí bên ngoài nên tượng trưng cho ngoại quái, ba số ở giửa là nội quái. Thí dụ ở một số điện thoại di động có số: xxxx123456 .  (a) Xác định quẻ nội và quẻ ngoại: Nội quái có ba số biểu thị là 123 (như vậy hào 1 là dương, hào 2 là âm, hào 3 là dương đây là quẻ Ly. Ngoại quái là 456 tức hào 4 là âm, hào 5 là dương, hào 6 là âm đây là quẻ Khảm. Như vậy số điện thoại này được xem là thuộc quẻ Thủy Hỏa Ký Tế. (b) Hào động  là tổng của 6 con số trên cộng lại rồi chia cho 6 và con số dư của phép tính chia đó là hào động, theo thí dụ trên có tổng của 6 số trên là 21, lấy 21 chia cho 6 có số dư là 3 như vậy là hào 3 động. Phần dự đoán cho số điện thoại này như sau: Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế có nghĩa là thành tựu và có may mắn trong thi cử. Hào 3 trong quẻ là hào Huynh Đệ động nên người này hay được anh em trợ giúp, hào Huynh Đệ còn có thêm nghĩa khác là hao tài nên người này tiền bạc hao tán, không tích lũy được nhiều tài sản. Nhìn chung cách dự đoán này có cơ sở lý giải khá vững chắc nhưng chỉ có thể gọi là đoán cho vui thôi. Bởi vì kết quả và độ tin cậy của nó chưa được kiểm chứng.

Chúng ta đang ở thế kỷ 21, với những tiến bộ khoa học vượt bậc, ở đây không có chỗ đứng cho những việc mơ hồ không chắc chắn. Nhưng với niềm tin (bao gồm tin và không tin) là quyền của mỗi con người. Tuy nhiên nếu niềm tin không được đặt trên nền tảng khoa học khách quan rất dễ dẫn đến mù quáng hay tệ hơn nữa là mê tín. Với các con số có người thích các con số này, có người thích các con số khác là sở thích cá nhân là quyền tự do của mỗi người, chúng ta không thể phê phán, chê trách hay cấm đoán được. Nhưng suy cho cùng những con số là những ký hiệu về số học, là số tự nhiên. Ở một mặt nào đó có thể xem đó là một thực tế khách quan.

Vương Học Vinh
(Nguồn ảnh: Internet)