Quan võ trấn biên thùy

Trời đang giữa hạ. Biên viễn Tây Nam khét khô mùi nắng. Cỏ cây cháy ám bụi. Đá núi trơ khô bỏng rát. Mặt đường giữa ngọ chảy nhựa đen nóng. Đó là cảnh quan khắc nghiệt của vùng Bảy Núi khi chúng tôi rong ruổi, vòng quanh những cung đường từng là căn cứ kháng chiến oanh liệt trong các cuộc chiến đấu vệ quốc của quân dân An Giang anh hùng. Nhưng tất cả dường như được xoa dịu đôi phần bởi những bụi tầm vông bạt ngàn xuất hiện hai bên đường, trước ngõ nhà, đường lên núi, lên căn cứ cách mạng một thời. Bất chấp sự khô cằn của đất núi, tầm vông thẳng tắp, vươn cao và đổ sắc xanh như thách thức…

Tầm vông trong tay ta tiến, nguyện cứu nước non

Xe chúng tôi đang đi trên hương lộ 55 đoạn nối liền Ba Chúc với Tịnh Biên theo hướng Đông Nam – Tây Bắc. Thời kháng chiến chống Pháp, đây là đoạn đường quan trọng phục vụ cho hoạt động quân sự từ Châu Đốc vào núi Dài. Âm mưu của địch là phong tỏa biên giới, làm bàn đạp đánh chiếm vào căn cứ cách mạng nên thực dân Pháp đưa một tiểu đoàn lính Âu Phi thuộc binh đoàn do tướng Ny-Ô chỉ huy đóng tại khu vực Lạc Quới (Tịnh Biên). Tại ngã ba Lạc Quới, địch xây dựng một đồn kiên cố có trận địa pháo 105 ly yểm trợ. Hằng ngày, địch cho một trung đội lính Âu Phi hành quân vào khu vực này, khảo sát ngày đêm xây lô cốt nhằm làm bàn đạp tấn công vào núi Tượng. Mỗi buổi sáng chúng chia làm ba hàng dọc, một hàng đi trên lộ, hai hàng đi cặp bờ lộ, đến cách cầu sắt Vĩnh Thông 400m chúng dừng lại tiến hành xây lô cốt, khoảng ba giờ chiều lại rút về Lạc Quới.

Nắm được quy luật của địch, Đại đội 2006, 2005 của Liên Trung đoàn 126 – 128 chuẩn bị kế hoạch chu đáo, tỉ mỉ, trong đêm bí mật đào công sự dưới chân lộ, ngụy trang kín đáo, tạo thế tiến công bất ngờ đánh tiêu diệt. Lúc này, Đại đội 2006 đóng tại núi Tượng (xã Ba Chúc) gồm có 3 trung đội, lực lượng tuy đông nhưng trang bị còn thô sơ, hỏa lực mạnh nhất là 1 khẩu đại liên. Đại đội 2005 đóng tại Lê Trì có nhiệm vụ án ngữ vùng núi Dài, chặn không cho địch từ Tịnh Biên, Vĩnh Trung đánh vào vùng căn cứ và 1 trung đội của Biệt động đội 304 là đơn vị làm công tác vũ trang tuyên truyền trong vùng đồng bào tôn giáo. Trung đội này đóng trên vồ núi Tượng để hằng ngày quan sát theo dõi địch từ Lạc Quới vào cầu sắt Vĩnh Thông. Nhận thấy thế mất cân bằng về lực lượng và đặc biệt là trang thiết bị vũ khí của địch quá mạnh, trong khi ta chỉ có một khẩu đại liên. Tình thế cấp bách, trong cái khó ló cái khôn, dân quân đã lên núi đốn chặt tầm vông để làm vũ khí đánh giặc.

Ngày 03/6/1949, như thường lệ, địch cho một tiểu đội đi giữa, hai tiểu đội đi hai bên và đã lọt vào khu vực phục kích của ta. Ban chỉ huy lệnh cho khẩu đại liên nổ súng, do bất ngờ địch trở tay không kịp, đại đội tiêu diệt một số tên, số còn lại tháo chạy hỗn loạn sang hai bên mé lộ để tránh đạn. Bất thần xung lực của ta hai bên chân lộ “đội mồ” xông lên tay cầm tầm vông giáng đòn áp đảo vào quân địch đang nhốn nháo. Chỉ trong vòng 10 phút, bộ đội đã diệt gọn trung đội lính Âu Phi. Điên tiết do mất trắng một trung đội, ngày 05/6/1949 địch đưa một đại đội vào đóng dài theo lộ để tổ chức lấy xác. Chúng tiến hành đào công sự dọc theo bờ lộ và ăn ngủ tại chỗ. Xong nhiệm vụ, chúng ở lại và tiếp tục xây lô cốt ở cầu sắt. Ban chỉ huy đại đội 2006 và đại đội 2005 sau khi nắm chắc tình hình và phối hợp chặt chẽ, cả hai đại đội đều hạ quyết tâm tập kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở lộ. Tham gia trận đánh gồm 3 trung đội của đại đội 2006, 1 trung đội của đại đội 2005 do đồng chí Đại đội trưởng 2006 chỉ huy. Một tiểu đội hỏa lực của e.304 tham gia tác chiến. Đêm 7/6/1949, bộ đội bí mật hành quân từ núi Tượng ra chiếm lĩnh ở các hướng Tây Bắc và hướng Đông. Khi đã chiếm xong trận địa, khẩu đại liên cách cầu sắt 50m được lệnh nổ súng. Quân địch tập trung đối phó ở hướng cầu sắt, bị dân quân ta bất ngờ xông lên, với gậy tầm vông trong tay, cứ thế phang, đập tiêu diệt địch từ trên lộ chạy xuống và đánh chiếm từng công sự địch. Chỉ trong vòng 1 giờ, bộ đội tiêu diệt gọn một đại đội địch. Đó là trận phục kích lần hai.

Ngày hôm sau, địch đưa một đại đội vào lấy xác, đồng thời vẫn ngoan cố chiếm đóng ở vị trí cũ. Kiên quyết không để địch củng cố lại công sự và đóng lại đồn, Ban Chỉ huy đại đội 2006 và 2005 chuẩn bị kế hoạch chu đáo với quyết tâm “tiêu diệt tận gốc” quân địch. Lần này, Ban chỉ huy đưa toàn bộ lực lượng của đại đội 2006 và 2005 tham chiến. Nhận thấy địch còn nhiều sơ hở phía sau, Ban chỉ huy hai đại đội hạ quyết tâm tập kích từ phía sau và đánh cuốn chiếu từ hai bên về hướng cầu sắt.

Đêm 09 rạng ngày 10/6/1949, bộ đội hành quân chiếm lĩnh trận địa. Đại đội 2005 ở phía Đông Nam lộ, đại đội 2006 ở phía Tây Bắc lộ hành quân theo hàng một tiến gần Lạc Quới, càng áp sát lộ. Lần này Ban chỉ huy không quy định giờ nổ súng, khi nào phát hiện hết đội hình địch thì xông lên lộ, xung phong đánh địch từ phía sau. Đến nửa đêm, nhận thấy thời cơ đã đến, Trung đội trưởng ra lệnh nổ súng. Súng vừa nổ, khẩu đại liên và bộ phận trinh sát ở đầu cầu bắn mạnh thu hút địch về phía cầu sắt. Quân địch bị tấn công về phía sau chạy dồn về hướng cầu sắt và dạt sang hai bên lộ. Bị đại liên bắn mạnh phía trước, lại bị lực lượng hai bên dùng gậy tầm vông đánh túi bụi, địch bị dồn gom lại, cuống cuồng chạy trên lộ. Từ phía sau quân ta tấn công, dồn địch về cầu sắt – nơi bộ đội dàn trận chờ sẵn. Trận đánh thứ 3 thắng lợi giòn giã, là niềm tự hào của quân dân An Giang nói chung, quân dân Bảy Núi nói riêng trong kháng chiến chống Pháp, tạo nên chiến công Vĩnh Thông bất diệt. Qua 7 ngày, quân dân Bảy Núi đã đánh thắng 3 trận liên tục, tiêu diệt gần 300 tên lính Âu Phi, bắt sống 7 tên, thu 213 súng các loại, bẻ gãy âm mưu của địch lấn chiếm vùng Bảy Núi và khóa cửa giao thông qua lại biên giới; giữ vững vùng giải phóng. Chiến thắng vang dội của quân ta làm nức lòng quân dân tỉnh nhà, củng cố niềm tin sắt đá vào sức mạnh quân sự trong đợt tổng phản công sắp tới. Chiến công vang dội Cầu sắt Vĩnh Thông đã đi vào lịch sử oanh liệt của An Giang qua bài hát “Câu hát Vĩnh Thông” của nhạc sĩ Quách Vũ và bài hát “Vĩnh Thông bất diệt” của  nhạc sỹ Hiếu Nam có câu:

“Bao phen quạ nói với diều

Vĩnh Thông cầu sắt có nhiều xác Tây…”

Trải qua 70 năm mà câu chuyện huyên thoại về Cầu sắt Vĩnh Thông như vừa mới ngày hôm qua, chúng tôi đứng dưới bia tưởng niệm, ngắm nhìn cây cầu lịch sử. Thời gian có thể làm hoen gỉ sắt thép, còn tinh thần quả cảm của con người thì tháng năm chỉ có thể biến nó thành vàng son chói lọi. Tôi ngước mặt lên tấm bia tưởng niệm. Trên ấy, một chú bộ đội tay cầm súng đứng cạnh một anh dân quân tay cầm khúc cây, cả hai hiên ngang trong tư thế một chân ghì lấy ba tên lính Âu Phi đang ngồi khúm núm, sợ sệt, hai tay co vào hai bên đầu với biểu thị đầu hàng. Tôi thắc mắc về khúc cây người dân quân cầm trên tay, nó chỉ dài vừa bằng chiều dài khẩu súng liên, thân tròn nhỏ và có gờ theo từng nấc. Tháp tùng theo đoàn,  chú Nguyễn Huệ Hưng – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật huyện Tri Tôn cho biết đó là khúc cây tầm vông.

Theo chú Hưng, ngày trước ở vùng đất này tầm vông chỉ mọc quanh chân núi. Người dân không trồng tầm vông quanh nhà. Theo tư duy của người vùng này chữ “tầm” đọc chệch ra chữ “tìm” còn “vong” là chết, tầm vong là tìm chết nên người dân rất kiêng cữ. Đến thời chống Pháp, bộ đội ta thiếu thốn trang thiết bị quân sự, nông dân càng tay không đánh giặc nên mới nghĩ đến tầm vông, dùng tầm vông làm vũ khí đánh giặc. Và từ đấy, tầm vông bắt đầu được nhân giống và phổ biến rộng khắp trong vùng như ngày nay. Vậy mới thấy, tinh thần yêu quê hương đất nước, lòng căm thù giặc nó to lớn, mạnh mẽ đến nhường nào. Những người dân vùng núi biên giới, cái chữ có khi chỉ bập bẹ đủ để đọc, để ghi tên, ký chữ. Họ có sợ cái chết không? Thế nhưng giữa cái chết trong một nỗi ám ảnh từ dân gian và sự sống mất tự do, ngày ngày chứng kiến quê hương bị giày xéo bởi dấu giày của kẻ thù xâm lược. Họ quyết sống chết để quê hương hồi sinh. Tấm bia tưởng niệm chiến thắng với khúc gậy tầm vông trên tay người dân quân là minh chứng cho sức mạnh của người nông dân nghĩa sĩ. Tôi đăm đăm nhìn tấm bia tưởng niệm chiến thắng Cầu sắt Vĩnh Thông cho đến khi mở cửa xe vào ngồi. Anh tài xế đã bắt nhạc từ lúc nào, khi này giọng ca sĩ đang vút lên câu hát: “Tầm vông trong tay ta tiến, nguyện cứu nước non” (Những nẻo đường phù sa).

Tầm vông đâu chịu bóng râm

Từ tỉnh lộ 955B, chúng tôi di chuyển vào chân núi Ngọa Long Sơn hay còn gọi là núi Dài. Đây là ngọn núi dốc được hình thành trong thời kỳ tạo sơn mãnh liệt nên đá trên núi phần lớn là đá cứng. Con rồng nằm này dài khoảng 8.000m, đi qua bốn xã của huyện Tri Tôn với nhiều con suối nhỏ, những cung đường ngoằn ngoèo mà hai bên vô số những vườn tầm vông dựng thẳng đứng. Đặc biệt là đoạn từ chân núi lên Ô Tà Sóc. Với lợi thế địa hình nên trong chiến tranh, Ô Tà Sóc có vị trí chiến lược hết sức quan trọng với sự hiểm trở của tự nhiên: Nhiều hang động, hốc đá cheo leo, gập ghềnh… Do vậy, Tỉnh ủy An Giang đã chọn nơi đây làm căn cứ, chỉ đạo đường lối kháng chiến và phong trào cách mạng tỉnh nhà thời kháng chiến chống Mỹ lập nên nhiều chiến công hiển hách.

Chưa mục thị vào hang, chỉ ngắm nhìn cảnh quan hai bên đường dẫn lối là những vườn tầm vông chạy liên tiếp xanh cây, xanh lá, chúng tôi không khỏi hình dung về bối cảnh giáp lá cà hay được xem trong các phim kiếm hiệp Trung Quốc. Thì ra giữa chốn thâm sơn cùng cốc của miền biên giới Tây Nam Việt Nam cũng có một “thập diện mai phục” thơ mộng và huyền bí một cách rất đỗi hoang mộc như thế. Một cuộc sống của đèn màu, nhà cao tầng và những chiếc smarphone trở nên quá vô nghĩa khi chúng tôi lần đường lên núi, nơi đó thỉnh thoảng vài cậu nhóc Khmer đen nhẻm, cởi trần, tóc xoăn khét nắng mở tròn xoe cặp mắt ngơ ngác nhìn đoàn khách vãng lai. Bọn trẻ khờ khạo đến mức khi bạn móc ví cho tiền chúng đều sẽ giật thụt lùi, rụt rè bỏ chạy. Bản chất nhút nhát đã ngấm sâu vào máu thịt của người dân tộc vùng này từ khi còn là một đứa trẻ. Hay những cánh rừng tầm vông bạt ngàn đã dạy chúng, nuôi dưỡng khí chất, lòng tự trọng không đứng dưới bóng râm của bất kỳ thế lực nào. Bản năng sinh tồn mạnh mẽ nhất là tự vươn lên ánh sáng, bền bĩ, chậm rãi mà quyết liệt. Đó cũng là đặc tính của riêng loại cây gắn với vùng núi này. Khác với giống tầm vông ở vùng Tây Nguyên, tầm vông Tri Tôn ruột đặc, là loại tầm vông mọc lên từ núi đá nên rất chắc và bền. Để có thể tồn tại và sinh trưởng, bộ rễ của tầm vông phải mất một thời gian rất lâu ăn sâu xuống mạch đất đá trước khi chúng nhú mầm lên khỏi mặt đất. Sự vững chãi và tính cẩn trọng để đương đầu cuộc sống trước khi bắt nhịp với giông gió, nắng mưa của khí hậu khắc nghiệt dường như đã có sự tính toán, chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Những cây non nhú mầm khỏi mặt đất sẽ từng ngày một vươn thẳng, cao vút lên bầu trời, đi về phía ánh sáng.

Tôi đứng giữa vườn tầm vông trải tít tắp bốn bề hồ như sẽ chẳng thể tìm được lối ra. Sẽ là cảm giác hoang mang nếu không phải có “thổ địa” đi cùng. Anh Nguyễn Văn Đức, cán bộ Trung tâm Văn hóa huyện Tri Tôn, người đã vòng vèo qua những con đường mòn gồ lên sụt xuống để đèo tôi đến giữa “thập diện mai phục”. Đây là cánh rừng tầm vông của nhà anh với tổng diện tích 80ha. Trưa nắng và vắng, tầm vông không xào xạc như tre trúc, chúng đứng im lìm, chỉnh tề như những vệ binh nghiêm trang trong hàng ngũ. Tiếng cuốc kêu, chim gõ kiến, và vô số những âm thanh rỉ rả của rừng trưa khiến lòng người xao động. Chúng tôi ngồi dưới tán một cây xoài lưa thưa lá. Anh kể, ngày xưa ba mẹ anh chỉ có vài công đất núi trồng tầm vông, rồi tích cóp bòn nhặt hễ ai bán vườn, bán đất là mua do đất dưới chân núi khô cằn nên việc canh tác rất cực nhọc. Ai không bền chí sẽ sớm tạm biệt núi thôi. Ngoài giờ hành chính, và các ngày nghỉ, anh và ba thường vào rừng để chăm sóc, phát cỏ, đánh dấu “tuổi” cho tầm vông. Chủ vườn sẽ quy định bằng màu sơn ở tất cả các bụi tầm vông để phân biệt trong cuộc sống quần cư, tụ họp ấy cây nào đã uống đủ gió mưa, thấm tháp nắng bụi, trút cạn mạch nguồn của đá của đất mà chuyển màu xanh vàng, mà gõ vào phát ra những tiếng kêu tóc tách chắc nịch, cây ấy sẽ được chọn để tiếp tục sứ mệnh tồn tại của nó trong cuộc đời. Với 80ha, hằng năm tầm vông cho lợi nhuận khoảng 400.000.000đ mà theo anh Đức, ít có trồng giống cây nào mà nhà vườn nhàn hạ như thế. Tầm vông là loài tự sinh, tự dưỡng, tính tự lập rất cao, chủ vườn chỉ tạo ra những chất xúc tác để tính cách của giống loài tự phát. Đó là cách con người phát cỏ để chúng dễ bề sinh sôi, nảy nở, hay khi tôi thắc mắc về những cây xoài xiêu vẹo, những cây tràm ốm o cặp kè nương theo tầm vông mà sống. Nhìn vào đã biết chúng sẽ chẳng mang lại nguồn lợi nào, nhưng tại sao nhà vườn vẫn phải trồng xen lẫn. Theo lời anh Đức, cách trồng như thế chỉ với mục đích tạo ra một sự cạnh tranh trong sinh tồn và loại tán rộng che phủ như xoài, loài cũng vươn thẳng như tràm khi sống chung sẽ tạo động lực để thuộc tính chuộng ánh sáng, vươn cao thẳng tắp của tầm vông được dịp phát huy. Tóm lại, tràm, xoài chỉ là tiêu chuẩn để đo ánh sáng, là kẻ địch kích thích bản năng, sự mạnh mẽ trong sinh trưởng của giống tầm vông. Nghĩ về sự thẳng tắp của giống cây không gai, trơn mắt này, tôi vẫn còn nuôi lại một nghi vấn về sự di chuyền và hoàn cảnh sống, sự không chuộng bóng râm thuộc về yếu tố nào? Tôi chưa biết nhưng chắc chắn bản chất ưa sáng đã là biểu trưng cho khí khái của nhân dân vùng núi, nơi phên dậu của đất trời Tây Nam.

Uốn tầm vông

Tầm vông dệt mộng biên thùy

Quê hương đã sạch bóng quân thù, nhưng sứ mệnh của tầm vông với vùng Bảy Núi dường như kéo dài mãi. Chúng tôi dừng chân ngay kinh Bến Xã, bờ kinh thuộc xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Mùa cạn, con kinh đặc lục bình quanh những chiếc ghe đậu sát bờ. Đây là nơi diễn ra các hoạt động buôn bán, sơ chế tầm vông trước khi xuất bến. Chú Phạm Văn Đây, ngoài năm mươi tuổi, người có nhiều năm gắn bó mưu sinh bằng nghề tầm vông chia sẻ: “Nhóm chúng tôi gồm một người đốn, hai người róc, ba người ôm ra khỏi vườn, một ngày đốn từ 500 – 1.000 cây, với tiền công 2.200đ/cây nhân lên rồi chia đều cho anh em, tính ra thu nhập hằng ngày cũng kha khá”. Tầm vông đang vào mùa thu hoạch, giữa cái nắng đỏ da cháy thịt của xứ núi, người đàn ông người Khmer đứng cạnh một đống lửa lớn, than đỏ rực lên khuôn mặt đen nhẻm của anh như muốn thiêu đốt. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để diễn tả được cảm xúc của mình trước khuôn mặt đầy những giọt nước rịn ra từ trán, hai bên má, trước cằm cứ tuôn như mưa trút. Lửa và than khiến làn da màu thêm rắn rỏi như sắt, như đồng. Trái với vẻ ngoài dạn dày nắng gió của biên ải là sự ái ngại, khép kín khi giao tiếp với người lạ. Anh cười trừ, khoe hàm răng sáng bóng thay vì cho biết tên, còn đôi tay chai, lem luốc bụi than vẫn thuần thục lật giở, kéo tầm vông lên lò để uốn. Tầm vông được đưa hong, hơ qua lửa là công đoạn cuối cùng trước khi vận chuyển xuống ghe tàu đi đến những miền đất mới. Người thạo nghề, chịu đựng sức nóng của lửa, biết thế của tầm vông, hướng của gió một ngày có thể uốn hơn 200 cây, với tiền công 1.500đ/cây. Thấy sự ngượng ngập của anh, anh Đức cho tôi biết thêm, gia đình của người đàn ông Khmer này cùng với rất nhiều các cặp vợ chồng trẻ trong xã đã trở lại quê nhà gần đây sau khi họ bồng bế nhau lên Bình Dương làm công nhân. Cuộc sống tha hương, chi phí sinh hoạt đắt đỏ nên tới đâu vẫn hết tới đấy. Họ trở về, sống cùng tầm vông. Mùa mưa đi phát cỏ, đào lỗ, ương cây tầm vông giống, trồng cây tầm vông con… Mùa nắng vào vườn đánh dấu, đốn hạ, kéo về bãi, uốn lửa, vác xuống ghe tàu. Nhiều người trong số thanh niên của xã đã học được nghề thủ công mở trại mộc, “chế biến” tầm vông thành những sản phẩm bắt mắt như: Thang, tủ chén, bàn, ghế, giường ngủ… Xu hướng của thời đại, khi công nghiệp hóa trở nên bão hòa, người ta lại chuộng những thứ gì thuộc về tự nhiên, dân dã và mộc mạc. Vậy nên các đồ thủ công từ chất liệu tầm vông rất được ưa chuộng mà không cần phải thổi dầu, đánh bóng. Ông Huỳnh Văn Vui, một thợ thủ công với tay nghề trên mười năm tiếp chuyện chúng tôi dưới chân vồ Cỏ Sả (núi Dài lớn) tâm sự. Nhưng làm thế nào để phát triển làng nghề truyền thống này và đưa nó thành một thương hiệu đặc sắc riêng của vùng Bảy Núi vẫn còn là điều trăn trở không chỉ của những nghệ nhân tâm huyết với nghề mà còn là bài toán khó của chính quyền địa phương trong bảo tồn, phát triển văn hóa gắn liền với xây dựng kinh tế, du lịch ở một huyện vốn đã gánh chịu nhiều vết thương của chiến tranh. Tầm vông đang và sẽ mang quê nhà đi ra sông lớn qua những chuyến ghe tàu chở những vật phẩm và cả những cây tầm vông với khả năng chống chịu dẻo dai trước giông gió, không bị mối mọt gặm nhấm đang được các khu du lịch, các resot, quán cà phê tạo dựng để đưa con người về gần hơn mộc mạc, như nhiên.

Theo những người cao tuổi xứ núi, chỉ riêng tầm vông vùng này khi thiệt già tầm 5 – 6 tuổi, thịt cây rắn chắc, cắt mặt sẽ thấy những đường chỉ. Đó là minh chứng cho quá trình chắt chiu, miệt mài tích góp của loài cây sống trên khô cằn đá núi, là sự ghi dấu cho vẻ ngoan cường chống chọi bảo vệ đất núi trước những trận cuồng phong, sạt lở cứ luôn rình rập ập xuống những mái nhà quần quanh dưới chân Ngọa Long Sơn mỗi độ mùa mưa về. Cuộc sống của cư dân cứ nương theo những cánh rừng tầm vông mà sinh sôi, mà được che chở.

Tạm biệt những cánh rừng tầm vông. Xe chúng tôi chầm chậm rời núi Dài. Qua khung cửa kính, hoa bằng lăng kết lại từng chùm dọc theo sườn núi tím rực dưới ánh nắng đang ngả về chiều. Mùa này, cánh hoa đượm sắc. Xác ve cũng xao xác bay rớt cả lên mui xe khi đi qua vài tán châm cũng đang tím lịm đi vì màu quả chín. Những trái châm rụng xuống mặt đường. Lòng tôi xốn xang khao khát tìm lại mùa châm của thời thơ dại. Trong phút chốc, hình ảnh bọn trẻ chúng tôi tay cầm mười que chuyền trải lên bắp chân rồi nhanh nhẹn chụp lấy quả banh vừa được tâng lên khoảng không. Đứa nào thắng sẽ được thưởng từng nắm châm chín mọng mà cả bọn đã thức cả buổi trưa, đứa trèo đứa hứng. Những que chuyền ấy được chọn lựa rất kỹ từ mười cây trúc nhỏ đều nhau, đủ già để khi chặt thành khúc không bị teo tóp đi. Lẩn quẩn thế nào, đầu óc lại quay về với tầm vông. Có thể chúng gần gụi. Xong, nếu cây trúc là biểu tượng cho nét đẹp mơ mộng, cho ký ức hồn nhiên, trong trẻo của tuổi thơ hay duyên dáng, yểu điệu khi được ví von như thiếu nữ đã là nguồn cảm hứng lớn trong thơ phú từ ngàn xưa: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình”; thì dường như tầm vông lại đẹp theo kiểu rắn rỏi,uy phong như một tướng lĩnh trước trận mạc, và sau cuộc chiến vị tướng ấy lại lao vào trấn giữ bờ cõi, giúp dân an cư lạc nghiệp.

Tôi tự cho phép mình đuổi theo cái ý nghĩ: Mỗi cây tầm vông là một quan võ trấn biên thùy.

Hoàng Thị Trúc Ly
(Ảnh: La Lam)