Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người con ưu tú của đất Nam bộ, biểu tượng của sự nghiệp đại đoàn kết

Chủ tịch Tôn Đức Thắng sinh ngày 20/8/1888 tại cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, trong một gia đình trung nông.

Thuở nhỏ, Bác Tôn học chữ Hán với thầy Nguyễn Thượng Khách, một nhà nho yêu nước của phong trào Duy Tân, sau đó học trường tiểu học Long Xuyên. Năm 1907 lên Sài Gòn học trường Bá Nghệ và chọn con đường làm thợ máy.

Năm 1916 Tôn Đức Thắng bị bắt sang Pháp làm lính thợ ở quân cảng Tu-Lông. Cùng với anh em thủy binh Pháp phản chiến ngày 19/4/1919 để bày tỏ tình đoàn kết với giai cấp vô sản nước Nga.

Sau đó Bác về nước, sống, làm việc trong giới công nhân và thành lập Công hội bí mật Sài Gòn năm 1920. Năm 1927 Bác Tôn tham gia Kỳ bộ Hội Thanh niên cách mạng Nam Kỳ. Ngày 26/7/1929 Bác bị bắt và ngày 27/6/1930 bị thực dân Pháp kết án 20 năm khổ sai, đày đi Côn Đảo.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Bác Tôn về đất liền, tham gia Xứ ủy Nam Bộ; đắc cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 3/1946 Bác ra Hà Nội và từ đó lần lượt phụ trách nhiều nhiệm vụ quan trọng của đất nước: Phó ban và Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Mặt trận Liên Việt, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Chủ tịch Hội Việt – Xô hữu nghị; Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam; Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VI; Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng từ khóa II đến khóa IV.

Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng Lê-nin “Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc” và Huân chương Lê-nin vào năm 1967. Tôn Đức Thắng cũng là người Việt Nam đầu tiên được trao Huân chương Sao Vàng là huân chương cao quý nhất của nước ta vào tháng 8/1958.

Có nhiều sự kiện đã diễn ra trong cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn mà các thế hệ chúng ta luôn phải quan tâm tìm hiểu, học tập. Đặt cuộc đời và sự nghiệp hoạt động của Bác Tôn trong bao nổi thăng trầm của đất nước, chúng ta mới thấy được Bác Tôn là một nhân chứng lịch sử theo suốt cuộc trường chinh vì độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc, bắt đầu từ thời kỳ đấu tranh giành chính quyền trong những năm 1930 cho đến cuộc kháng chiến 30 năm chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ 1945 – 1975 và cuối cùng là 2 cuộc chiến tranh vệ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Trong cuộc đời mình, trên bất kỳ cương vị nào, là người thợ máy hay làm Chủ tịch nước, Tôn Đức Thắng luôn hiến dâng cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tài năng lớn nhất ở Bác Tôn chính là tài tổ chức, tập hợp những người cùng chí hướng, cảm hóa những kẻ lầm đường … để rồi Bác Tôn trở thành biểu tượng của sự nghiệp đại đoàn kết đồng bào, đồng chí; đoàn kết anh em, bạn bè quốc tế. Cuộc sống thợ thuyền đã dạy cho Tôn Đức Thắng biết khai thác tình cảnh thống khổ chung để tập hợp anh em lao động. Tác phong gương mẫu, tinh thần quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, có năng lực chuyên môn cao đã tạo ra sức hút kỳ lạ trong con người Tôn Đức Thắng đối với anh em công nhân, đoàn kết họ lại để đấu tranh.

Trong suốt 15 năm bị đày ải ở Côn Đảo, Tôn Đức Thắng là hạt nhân đoàn kết trong chi bộ và Hội tù nhân, không chỉ những người cộng sản, tù chính trị mà cả tù thường phạm đều kính trọng. Có thể nói, Bác Tôn Đức Thắng ở đâu thì không khí đoàn kết thương yêu bao trùm ở đó.

Tiếp thu truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, cộng với kinh nghiệm của bản thân đã trải qua những bước đường gay go, gian khổ, Tôn Đức Thắng khi được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (1951) và sau đó là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt nam (9/1955), đã đem toàn tâm, toàn ý xây dựng khối liên minh công – nông vững chắc làm nền tảng cho Mặt trận, xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết Việt Nam – Lào – Campuchia cũng như đoàn kết với các nước trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ thế giới. Bác Tôn là tấm gương sáng về ý chí kiên cường và tinh thần đấu tranh cách mạng, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là tấm gương kiên trung của một người tù khổ sai bị đày ra “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Nơi đó, người chiến sĩ có gan dạ, bền chí mới chống lại được xiềng xích, đòn roi của kẻ thù và chỉ có lòng yêu nước sắt son, chỉ có niềm tin sắt đá mới chịu nổi 17 năm tù dài đằng đẳng trong cuộc đời Bác Tôn Đức Thắng..

Nhân cách của Bác Tôn là nhân cách của người cộng sản gương mẫu, tiêu biểu cho đạo đức cách mạng, là bài học thiết thân của các thế hệ Việt Nam. Đó là, dù ở cương vị nào, Bác Tôn cũng thể hiện nghiêm túc phẩm chất  đạo đức của người cách mạng, lúc nào cũng chuyên cần, siêng năng, chăm chỉ; sống bình dị, đạm bạc, thanh cao; luôn giữ lòng thanh liêm chính trực, trong sáng; không màng cao sang, tiền tài danh lợi, hết lòng vì nước, vì dân, luôn sẵn sàng hy sinh cái riêng cho cái chung, đặt lợi ích chung lên lợi ích riêng…Từ cuộc sống người thợ, rồi chốn lao tù đến khi giữ những trọng trách của Đảng và Nhà nước, Tôn Đức Thắng luôn dành tất cả tình cảm cho đồng bào, đồng chí và sẵn lòng chia sẻ những khó khăn với tất cả mọi người.

Bác Tôn đã sống, chiến đấu và cống hiến trọn một đời cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản cho Tổ quốc, cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ca ngợi: “Đồng chí Tôn Đức Thắng, là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng; suốt đời cần kiêm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo của Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người…”

Với vai trò là Phó ban và Trưởng ban thường trực Quốc hội khóa I, Bác Tôn đã có nhiều công lao, đóng góp cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhiệm kỳ Quốc hội kéo dài đến 14 năm do hoàn cảnh chiến tranh.

Kỷ niệm 132 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng 20/8/1888 – 20/8/2020, chúng ta tự hào về Người và nguyện noi gương, kế thừa sự nghiệp của Bác, mãi mãi xứng đáng với những hy sinh to lớn của đồng bào, đồng chí đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ gìn và phát huy giá trị di sản của Bác Tôn để lại cho chúng ta.

                                                                                                             Võ Quốc